Dịch thì và thể ở thức trực chỉ từ tiếng Anh sang Tiếng Việt
Trong dịch thuật, đặc biệt dịch tiểu thuyết hoặc văn xuôi, người dịch thường
gặp câu ở hai hình thức: trực chỉ hoặc trần thuật. Bài viết này nghiên cứu cách dịch thì hiện
tại đơn và quá khứ đơn ở thức trực chỉ từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Dữ liệu được lấy từ tiểu
thuyết The Great Gatsby của nhà văn Mỹ Francis Scott Fitzgerald và bản dịch tiếng Việt
của ba tác giả Mặc Đỗ, Hoàng Cường và Trịnh Lữ. Bằng phương pháp miêu tả, so sánh và
đối chiếu, tác giả đã rút ra được một số kết quả về phương pháp dịch của ba tác giả kể trên.
Phương pháp dịch đó có thể là qua cách sử dụng trạng từ chỉ thời gian, chỉ dấu thể, hoặc qua
cách sử dụng động từ cảnh huống. Nghiên cứu góp phần làm rõ phương pháp dịch đã được
ba dịch giả chuyên nghiệp sử dụng và là cứ liệu tham khảo quan trọng đối với việc giảng dạy,
học tập môn dịch cũng như công việc dịch thuật nói chung
37Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion DỊCH THÌ VÀ THỂ Ở THỨC TRỰC CHỈ TỪ TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT TRANSLATION OF TENSE AND ASPECT IN DEICTIC MODE FROM ENGLISH INTO VIETNAMESE Nguyễn Đình Sinh* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/11/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/5/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/5/2020 Tóm tắt: Trong dịch thuật, đặc biệt dịch tiểu thuyết hoặc văn xuôi, người dịch thường gặp câu ở hai hình thức: trực chỉ hoặc trần thuật. Bài viết này nghiên cứu cách dịch thì hiện tại đơn và quá khứ đơn ở thức trực chỉ từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Dữ liệu được lấy từ tiểu thuyết The Great Gatsby của nhà văn Mỹ Francis Scott Fitzgerald và bản dịch tiếng Việt của ba tác giả Mặc Đỗ, Hoàng Cường và Trịnh Lữ. Bằng phương pháp miêu tả, so sánh và đối chiếu, tác giả đã rút ra được một số kết quả về phương pháp dịch của ba tác giả kể trên. Phương pháp dịch đó có thể là qua cách sử dụng trạng từ chỉ thời gian, chỉ dấu thể, hoặc qua cách sử dụng động từ cảnh huống. Nghiên cứu góp phần làm rõ phương pháp dịch đã được ba dịch giả chuyên nghiệp sử dụng và là cứ liệu tham khảo quan trọng đối với việc giảng dạy, học tập môn dịch cũng như công việc dịch thuật nói chung. Từ khóa: phương pháp dịch, thì, thể, thức trực chỉ, thức trần thuật. Abstract: In translating practice, especially translating novels or proses, translators often translate sentences of two modes: deictic or narrative. The current study investigated the methods of translating the simple present and simple past tenses of sentences in deictic mode from English into Vietnamese. The data were taken from the novel “The Great Gatsby” by American writer Francis Scott Fitzgerald and its translations by three Vietnamese translators Mặc Đỗ, Hoàng Cường và Trịnh Lữ. By employing the descriptive, comparative and contrastive techniques, the results indicate that the translation could be done via the use of temporal adverbs, aspectual markers or situation types of verbs. The study is expected to contribute signifi cantly to the teaching, learning of translation and to the translating job in general. Keywords: methods of translation, tense, aspect, deictic mode, narrative mode. * Trường Đại học Mở Hà Nội Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 67 (5/2020) 37-47 38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 1. Đặt vấn đề Khái niệm thì, thể và cách chuyển dịch nghĩa của ngôn bản từ một ngoại ngữ có thì, thể sang tiếng Việt tuy đã được nghiên cứu song kết quả nghiên cứu đó còn chưa rõ hoặc cứ liệu chưa nhiều đặc biệt là nghiên cứu cách dịch yếu tố thì, thể từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Yếu tố thì, thể tưởng chừng như khái niệm tất yếu tồn tại ở một số ngôn ngữ gốc Ấn-Âu như tiếng Pháp, Đức, Ý, Hy Lạp, Anh v.v thì trong tiếng Việt, ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer trong ngữ hệ Nam Á sự tồn tại của nó có được công nhận hay không còn chưa rõ ràng. Chính vì vậy mà có những nghiên cứu về cách diễn đạt thì, thể trong tiếng Việt so với một ngoại ngữ khác. Ví dụ như Phan (2003) đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ có tựa đề “Cách diễn đạt ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt so sánh với tiếng Nga”. Nghiên cứu này tác giả đối chiếu cách diễn đạt thời gian giữa tiếng Nga và tiếng Việt để tìm ra điểm giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ, từ đó có kết luận đóng góp cho việc giảng dạy và học tập cũng như công việc dịch. Kết luận của cô cho thấy cách diễn tả thời gian có thể tìm thấy ở tất cả các ngôn ngữ, tuy nhiên cách diễn đạt bằng thì chỉ thấy ở những ngôn ngữ biến hình như tiếng Nga. Ở tiếng Việt, thời gian được thể hiện qua từ vựng. Với Trần (2005), luận án tiến sĩ của cô mang tên “Thì, thể và các phương tiện biểu hiện trong tiếng Việt” đã liệt kê các trạng từ diễn tả ý nghĩa thì và thể trong tiếng Việt bao gồm: “đã”, “sẽ”, “đang”, “từng”, “vừa”, “mới”, “sắp”, “chưa” và “không”. Ngoài ra còn có luận văn thạc sĩ của Ngo (2016) mang tên “So sánh cách diễn đạt thì và thể giữa tiếng Anh và tiếng Việt”. Nghiên cứu của cô đưa ra bản so sánh chung loại hình thì và thể giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Cô đi đến kết luận rằng “Tiếng Việt không có phụ tố ngữ pháp, phụ tố là đặc trưng của tiếng Anh”. Có thể nói chưa có nghiên cứu nào làm rõ được cách dịch thì và thể từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Trước thực trạng nêu trên, việc dịch thì và thể từ tiếng Anh sang tiếng Việt đôi lúc còn tối nghĩa, chưa thống nhất hoặc khó xác định câu dịch tiếng Việt đó đang miêu tả thì, thể nào trong tiếng Anh. Trong bài viết này chúng tôi sẽ đi nghiên cứu để làm rõ cách dịch hai thì trong tiếng Anh là thì hiện tại đơn và quá khứ đơn thông qua bản dịch của ba tác giả Mặc Đỗ, Hoàng Cường và Trịnh Lữ từ tiểu thuyết The Great Gatsby của nhà văn Mỹ Francis Scott Fitzgerald sang tiếng Việt. 2. Lý thuyết về dịch, thì, thể, thức trực chỉ và động từ cảnh huống 2.1. Dịch thuật 2.1.1. Khái niệm dịch thuật Trước khi đi vào phân tích, so sánh, đối chiếu phương pháp dịch thuật, khái niệm thế nào là dịch thuật cần được làm rõ. Từ khi dịch thuật được quan tâm nghiên cứu, đã có rất nhiều các định nghĩa khác nhau được đưa ra. Định nghĩa đầu tiên phải kể đến đó là của Jakobson (1959, tr.233) khi ông cho rằng “việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là quá trình thay thế nội dung ở một ngôn ngữ không phải là các đơn vị mã riêng lẻ mà là toàn bộ nội dung ở ngôn nhữ khác”. Với quan điểm của Nida (1964) thì định nghĩa về dịch thuật nhiều vô kể và đa dạng như chính người tham gia nghiên cứu nó. Catford (1965) đơn giản cho rằng dịch là cách thay 39Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion thế nghĩa của ngôn ngữ này bằng ngôn ngữ khác. Trong khi đó Newmark (1988, tr.5) quan tâm nhiều đến tác giả hơn khi nhận định về dịch thuật nên ông cho rằng “dịch là cách chuyển nghĩa văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác theo cách mà tác giả mong muốn”. Ngoài các quan điểm kể trên còn rất nhiều các quan điểm về dịch thuật khác nhau trên thế giới. Tuy nhiên, bản chất của dịch thuật chính là quá trình tìm đơn vị ngôn ngữ tương đương giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Nên nội dung tương đương trong dịch thuật sẽ được đề cập trong phần tiếp theo của nghiên cứu. 2.1.2. Tương đương trong dịch thuật Trong khi Catford (1965), Nida, Taber (1969) và Pym (1995) khi nghiên cứu dịch thuật có xem xét cả vấn đề tương đương thì Hornby (1988) cho rằng tương đương không liên quan đến dịch. Nghiêm trọng hơn Gentzler (1993) thậm chí cho rằng khái niệm tương đương làm tổn hại cho các nghiên cứu về dịch thuật. Tuy nhiên, trước đó Baker (1992) lại dành cả một cuốn sách bàn về các loại hình tương đương trong dịch thuật. Bà cho rằng sử dụng khái niệm tương đương do sự thuận tiện vì hầu hết dịch giả quen với khái niệm này chứ không vì vị thế của nó trong lý thuyết. Đến thời điểm của Kenny (1998), ông cho rằng tương đương là điều kiện cần thiết cho dịch thuật. Nó là điểm nối kết giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Cùng nói về sự kết nối song đó là sự kết nối về mặt ngữ nghĩa Munday (2001) cho rằng sự tương đương trong dịch thuật nhấn mạnh đến sự khác biệt về cấu trúc và thuật ngữ hơn là sự bất khả dịch từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích. Sự tương đồng được coi như tính chính xác, sự phù hợp, sự đúng đắn, sự tương ứng, độ trung thực và tính đồng nhất là do Venuti (2000) nhìn nhận. Bên cạnh những quan niệm khác nhau về vấn đề tương đương trong dịch thuật thì cũng có nhiều quan điểm khác nhau trình bày về các loại hình tương đương. Nida (1964) nghiên cứu vấn đề tương đương trong dịch thuật một cách khoa học và đưa ra hai loại hình tương đương: loại thứ nhất là tương đương về mặt hình thức và loại thứ hai là tương đương về mặt chức năng. Loại tương đương về hình thức quan tâm đến cả hai đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa. Trong khi loại tương đương về chức năng không quan tâm nhiều đến việc liên kết thông điệp của ngôn ngữ tiếp nhận với ngôn ngữ nguồn. Ngược lại mối quan hệ chức năng giữa ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ nguồn cần phải khá tương đồng. Cũng chia tương đồng làm hai loại, Catford (1965) cho rằng tương đồng có thể thuộc tương ứng hình thức hoặc tương đồng van bản. Tương ứng hình thức xét tới phạm trù tương ứng ngôn ngữ đích như đơn vị, loại, cấu trúc, thành tố cấu trúc v.v Trong khi đó Hornby (1998, tr.20) cho rằng cách nhìn nhận của Catford (1965) “định nghĩa lòng vòng không dẫn đến đâu”. Ngoài ra còn rất nhiều cách phân loại tương đồng khác, tuy nhiên cách phân loại của Baker (1992), theo chúng tôi, là phù hợp với nghiên cứu này. Baker (1992) chia tương đương thành năm mức độ bao gồm mức độ từ, trên từ, ngữ pháp, văn bản và ngữ dụng. Riêng tương đương ở mức độ ngữ pháp, ông chia nhỏ thành năm loại, bao gồm: số, giống, đại từ nhân xưng, thì và thể và dạng. Bài nghiên cứu này xem xét cách dịch thì hiện tại đơn và quá khứ đơn, 40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion xét theo cấp độ tương đương thuộc cấp độ ngữ pháp. 2.2. Thì và thể 2.2.1. Thì và thể trong tiếng Anh Khái niệm thì và thể được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các quan điểm khác nhau. Khi xét thì qua các chỉ dấu, Jespersen (1931) cho rằng thì thường được dùng để chỉ các chỉ dấu hình vị của động từ, nó có chức năng mô tả mối quan hệ về mặt thời gian giữa tình huống và thời gian phát ngôn. Cho rằng thì là một phạm trù thuộc ngữ pháp, Comrie (1985, tr.10) khẳng định “thì phải thuộc hệ thống ngữ pháp của một ngôn ngữ”. Trong khi đó Finch (2005, tr.113) định nghĩa thì như sau “ thì chỉ sự thay đổi về mặt ngữ pháp thể hiện qua dạng của động từ theo thời gian và chỉ chức năng ngữ nghĩa qua những thay đổi đó”. Theo ngữ pháp truyền thống, tiếng Anh được xem là có 12 thì. Đó là sự kết hợp giữa thì và thể, Murcia và Feeman (1999) kết hợp 3 thì: hiện tại, quá khứ, và tương lai với 4 thể: đơn, hoàn thành, tiếp diễn và hoàn thành tiếp diễn. Khi xem xét mối quan hệ của thì với thể hoàn thành hay diễn tiến của hành động Quirk và Greenbaum (1973) cũng cho rằng tiếng Anh có 12 thì chính. 2.2.2. Thì và thể trong tiếng Việt Tranh luận xoay quanh chủ đề liệu rằng tiếng Việt có thì và thể không vẫn còn rất phổ biến trong giới các nhà ngôn ngữ. Trần Trọng Kim (1940) được xem là một trong những nhà ngôn ngữ đầu tiên có nghiên cứu liên quan đến thì, thể trong tiếng Việt. Khi nghiên cứu trạng từ chỉ thời gian, ông chia trạng từ thành các loại khác nhau. Để diễn tả thì hiện tại, trạng từ thường được sử dụng gồm: bây (ít được sử dụng), giờ, chừ, nay, rày, bây chừ, bây giờ. Thì quá khứ, trạng từ chỉ khoảnh khắc gồm: Khi nãy, lúc nãy, hồi nãy; trạng từ chỉ ngày; tháng; năm: hôm qua, hôm kia, hôm kìa, hôm trước, hôm nọ; tháng trước; năm ngoái, năm kia, năm kìa; Trạng từ chỉ thời gian vừa trôi qua: mới rồi, vừa rồi; Trạng từ chỉ thời gian trôi qua đã lâu: xưa, ngày trước, độ trước, đời trước, trước kia, ngày xưa, thuở xưa, đời xưa, xưa kia. Một số nhà nghiên cứu ngữ pháp khẳng định tiếng Việt có ba thì là thì hiện tại thể hiện qua phó từ đang, thì quá khứ diễn tả bằng từ đã và thì tương lai sử dụng từ sẽ để miêu tả. Các nhà nghiên cứu đó theo Cao Xuân Hạo (1998) gồm Trương Vĩnh Ký (1883); Bùi Đức Tịnh (1952). Bên cạnh đó thì Nguyễn Minh Thuyết & Nguyễn Văn Hiệp (1998), Panfi lov (1993) lại đồng nhất nghĩa của thì với từ loại và phủ nhận thì là phạm trù ngữ pháp trong tiếng Việt. Cao Xuân Hạo (1998), Emeneau (1951), Jones & Huỳnh Sanh Thông (1960) phủ nhận tiếng Việt có thì khi cho rằng “Khó tìm được hình thức nào trong tiếng Việt giống với thì”. 2.3. Thức trực chỉ Trong tiếng Anh, mối quan hệ giữa thời điểm phát ngôn và thời điểm hành động, sự việc xảy ra cho thấy hai thời điểm đó có trùng nhau hay không. Thời điểm quy chiếu hiện tại được xem là “trung tâm trực chỉ đối với hệ thống thì” theo Comrie (1985, tr.85). Ví dụ: John said yesterday, “I shall leave tomorrow”. Trong câu ở thể trực tiếp này đại từ nhân xưng “I” chỉ người phát ngôn ban đầu tức là John; trạng từ “tomorrow” được sử dụng theo quan điểm trung tâm trực chỉ của John. Tức thời gian quy chiếu ngày mai là so với thời 41Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion điểm John phát ngôn. Đối với cách nói gián tiếp, có sự thay đổi rõ rệt. Có thể thay đổi cách hành văn của John sao cho nghĩa không đổi, hoặc có thể thay đổi động từ “leave” bằng động từ “depart”. Câu nói đó có thể chuyển thành cách nói gián tiếp như sau: “John said that he would depart today.” 2.4. Động từ cảnh huống Khi đi sâu nghiên cứu về thể của từ, Vendler (1967) đã đưa ra giản đồ về mặt thời gian qua việc sử dụng của động từ trong tiếng Anh. Động từ trong tiếng Anh được ông chia thành bốn loại dựa trên các tiêu chí: Thứ nhất, cảnh huống của động từ có thể hiện sự kéo dài của hành động không; Thứ hai, động từ có làm thay đổi cảnh huống đó không; Thứ ba, cảnh huống đó có hữu đích không, tức là có điểm kết thúc không. Bốn loại động từ được ông chia như sau: a. Động từ trạng thái (kéo dài, không thay đổi, vô đích), ví dụ: have (có), posess (sở hữu), know (biết), love (yêu), hate (ghét) b. Động từ hoạt động (kéo dài, thay đổi, vô đích), ví dụ: walk (đi bộ), swim (bơi), push (đẩy), pull (kéo) c. Động từ hoàn thành (kéo dài, thay đổi, hữu đích), ví dụ: paint a picture (vẽ bức tranh), build a house (xây dựng ngôi nhà) d. Động từ thành tựu (không kéo dài, thay đổi, hữu đích), ví dụ: recognize (công nhận), stop (dừng), start (khởi động) 3. Phương pháp nghiên cứu Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi chỉ đi khảo sát cách dịch thì hiện tại đơn và quá khứ đơn từ tiếng Anh sang tiếp Việt. Dữ liệu nghiên cứu thu thập từ tiểu thuyết tiếng Anh “The Great Gatsby”, viết năm 1925 của nhà văn Mỹ Francis Scott Fitzgerald được ba tác giả Mặc Đỗ dịch thành “Con người hào hoa” năm 1956; Hoàng Cường dịch là “Gatsby vĩ đại” năm 1985 và Trịnh Lữ dịch sang tiếng Việt “Đại gia Gatsby” năm 2015. Dữ liệu gồm 300 câu thì hiện tại đơn và 300 câu thì quá khứ đơn cùng với các câu dịch tương ứng trong ba bản dịch của ba tác giả Việt kể trên. Các câu được chọn ngẫu nhiên từ chín chương của cuốn tiểu thuyết. Để đạt được mục đích nghiên cứu, những câu hỏi dưới đây cần được trả lời: 1. Các câu tiếng Anh ở thì hiện tại đơn dịch sang tiếng Việt bằng cách nào? 2. Các câu tiếng Anh ở thì quá khứ đơn dịch sang tiếng Việt bằng cách nào? Dựa trên phần lược sử nghiên cứu trình bày ở trên, lý thuyết về thì thể và lý thuyết về động từ cảnh huống của Vendler (1967), chúng tôi xây dựng khung lý thuyết dưới dạng bảng nhằm để mô tả, đối chiếu cách dịch thì hiện tại đơn và quá khứ đơn. Các trạng từ chỉ thời gian trong tiếng Việt được sử dụng để miêu tả thì và thể có thể là các trạng từ chỉ thời gian hiện tại như: nay, ngày nay, hiện nay, hôm nay, tuần này v.v..; trạng từ chỉ thời gian quá khứ như: hôm qua, hôm đó, ngày trước, tuần trước, ngày xưa v.v; trạng từ chỉ thời gian tương lai như: ngày mai, hôm tới, tuần sau, sau này, ngày sau, tương lai v.v.... Bên cạnh đó các trạng từ chỉ sự tiếp diễn như: đang, đương, sẽ v.v; trạng từ chỉ sự hoàn thành như: đã, xong, rồi v.v cũng được sử dụng. Khi không có sự xuất hiện của các trạng từ kể trên trong câu dịch tiếng Việt, chúng tôi xét đến sự tương đồng của các động từ cảnh huống giữa hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. Khung lý thuyết có hình thức như bảng 1 dưới đây: 42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Bảng 1: Khung đối chiếu cách dịch thì tiếng Anh sang tiếng Việt CN TX DG CĐ TTTG CDT ĐT HT QK TD HOT TT HĐ HTH TT HTĐ MĐ HC TL QKĐ MĐ HC TL Ghi chú: CN: Câu nguồn; HTĐ: Hiện tại đơn; QKĐ: Quá khứ đơn; TX: Tần xuất; DG: Dịch giả; MĐ: Mặc Đỗ; ; HC: Hoàng Cường; TL: Trịnh Lữ; CĐ: Câu đích; TTTG: Trạng từ thời gian; HT: Hiên tại; QK: Quá khứ; CDT: Chỉ dấu thể; TD: Tiếp diễn; HOT: Hoàn thành; ĐT: Động từ; TT: Trạng thái; HĐ: Hoạt động; HTH: Hoàn thành; TT: Thành tựu Dữ liệu được thu thập là 300 câu tiếng Anh ở thì hiện tại đơn và 300 câu tiếng Anh ở thì quá khứ đơn cùng các câu dịch tương ứng của 3 dịch giả Việt. Sử dụng các tiêu chí ở bảng 1 để tổng hợp thành dạng con số các câu dịch tương ứng bên tiếng Việt. Các số liệu này sẽ được phân tích, diễn giải ở phần tiếp theo của nghiên cứu. 4. Kết quả và thảo luận Kết quả nghiên cứu cho thấy, cùng dữ liệu nguồn là 300 câu mỗi thì, tuy nhiên có sự khác biệt nhất định trong cách dịch của ba dịch giả Việt, rõ ràng là ba dịch giả Việt Nam đã sử dụng các cách dịch khác nhau. Sự khác biệt đó có thể thấy rõ qua kết quả đối chiếu các câu dịch theo các tiêu chí ở bảng 1, chúng tôi có bảng 2 với các con số thể hiện số câu dịch tương ứng giữa tiếng Anh và tiếng Việt như hình dưới đây: Bảng 2: Bảng kết quả đối chiếu cách dịch thì tiếng Anh sang tiếng Việt CN TX DG CĐ TTTG CDT ĐT HT QK TD HOT TT HĐ HTH TT HTĐ 300 MĐ 17 3 4 202 51 11 12 HC 12 2 211 41 16 18 TL 16 7 226 29 8 14 QKĐ 300 MĐ 2 3 197 50 25 23 HC 6 7 3 218 38 16 12 TL 5 198 57 24 16 Nhìn vào bảng 2 ta thấy, cùng sử dụng trạng từ chỉ thời gian hiện tại trong tiếng Việt để dịch thì hiện tại đơn từ tiếng Anh sang, Mặc Đỗ đã sử dụng trạng từ này để dịch 17 câu, trong khi Hoàng Cường chỉ dùng để dịch 12 câu. Cụ thể kết quả dịch của từng dịch giả sẽ được phân tích ở phần dưới đây. 43Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 4.1 Kết quả nghiên cứu 4.1.1. Các phương tiện dịch của tác giả Mặc Đỗ Bảng 3: Các phương tiện dịch của tác giả Mặc Đỗ Số câu 600 Trạng từ TG 22 (3.7%) Chỉ dấu thể 7(1.2%) HT 19 (86.4%) TD 3 (42.9%) QK 3 (13.6%) HOT 4 (57.1%) Động từ 571 (95.1%) TT 399 (69.9%) HĐ 101 (17.7%) HTH 36 (6.3%) TT 35 (6.1%) Ghi chú: TG: Thời gian; HT: Hiện tại; QK: Quá khứ; TD: Tiếp diễn; HOT: Hoàn thành; TT: Trạng thái; HĐ: Hành động; HTH: Hoàn thành; TT: Thành tựu Trong số 600 câu tiếng Anh ở hai thì: Hiện tại đơn và quá khứ đơn, Mặc Đỗ sử dụng 22 trạng từ chỉ thời gian (chiếm 3.7%) cho việc dịch nghĩa hai thì trên ở 22 câu sang tiếng Việt. Trong đó trạng từ chỉ thời gian hiện tại là 19 trạng từ (chiếm 86.4%), số còn lại là trạng từ chỉ thời gian quá khứ là 3 (chiếm 13.6%). Trong khi đó Dịch giả chỉ dùng 7 từ chỉ dấu thể ở 7 câu (chiếm 1.2%): Chỉ dấu thể tiếp diễn là 3 (chiếm 42.9%), chỉ dấu thể hoàn thành là 4 (chiếm 57.1%). Số còn lại gồm 571 câu được dịch sang tiếng Việt qua việc sử dụng động từ cảnh huống (chiếm 95.1%). Trong đó việc sử dụng động từ trạng thái để dịch được thấy nhiều nhất, nằm ở 399 câu (chiếm 69.9%). Động từ thể hiện thành tựu ít được sử dụng dịch nhất, chỉ thấy ở 35 câu (chiếm 6.1%). Bên cạnh đó động từ chỉ sự hoàn thành cũng chỉ được sử dụng dịch ở 36 câu (chiếm 6.3%). Động từ chỉ hoạt động xếp thứ hai, khi xuất hiện ở 101 câu dịch (chiếm 17.7%). 4.1.2. Các phương tiện dịch tác giả Hoàng Cường Bảng 4: Các phương tiện dịch của tác giả Hoàng Cường Số câu 600 Trạng từ TG 25 (4.2%) Chỉ dấu thể 5(0.8%) HT 12 (48%) TD 3 (60%) QK 13 (52%) HOT 2 (40%) Động từ 570 (95%) TT 429 (75.3%) HĐ 79 (13.9%) HTH 32 (5.6%) TT 30 (5.2%) Ghi chú: TG: Thời gian; HT: Hiện tại; QK: Quá khứ; TD: Tiếp diễn; HOT: Hoàn thành; TT: Trạng thái; HĐ: Hành động; HTH: Hoàn thành; TT: Thành tựu 44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Cùng số lượng 600 câu tiếng Anh ở hai thì: Hiện tại đơn và quá khứ đơn, Hoàng Cường có cách dịch nhiều câu khác với Mặc Đỗ. Cụ thể, dịch giả này sử dụng 25 trạng từ chỉ thời gian (chiếm 4.2%) để dịch nghĩa 25 câu chứa hai thì trên sang tiếng Việt. Trong đó trạng từ chỉ thời gian hiện tại là 12 trạng từ (chiếm 48%), số còn lại là trạng từ chỉ thời
File đính kèm:
- dich_thi_va_the_o_thuc_truc_chi_tu_tieng_anh_sang_tieng_viet.pdf