Dạy và học tiếng Anh theo phương pháp Natural Approat

Natural Approat∫ là một công trình nghiên cứu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ,

rút ngắn quá trình hình thành ngôn ngữ tự nhiên của con người, loại bỏ hết tất cả

những cái sai làm mất nhiều thời gian và chỉ thực hiện một chuỗi quá trình đúng,

giúp một người từ chỗ không diễn đạt được ý mình đến khả năng diễn đạt lưu loát.

Phương pháp này thông qua hai quá trình độc lập nhau, đó là quá trình “nạp” và

quá trình “khai thông”.

pdf6 trang | Chia sẻ: việt anh | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dạy và học tiếng Anh theo phương pháp Natural Approat, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 một thất bại về thời gian. Đó là chưa 
kể, quá trình này cũng chỉ có thể tạo ra “hệ ngôn ngữ tiềm ẩn” mà thôi. 
Chúng ta hãy xem cách một người Việt từ lúc sinh ra cho đến khi có thể giao tiếp 
tạm được (cho đến năm học lớp 1 chẳng hạn). Hệ thống ngôn ngữ được nạp vào 
đầu một cách tự nhiên qua nhiều năm tháng. Cuối cùng, hệ thống câu từ cơ bản đã 
được hình thành và em bé này được cho là nói tiếng Việt “lưu loát” như nhiều nhà 
phân tích ngôn ngữ kết luận. Nhưng thật sự thì cho đến khi học hết đại học một 
sinh viên còn cần phải học kỹ năng giao tiếp thì mới nói được tiếng Việt lưu loát, 
diễn đạt được ý của mình. Cho đến giai đoạn này, ngôn ngữ chỉ hình thành dưới 
dạng “tiềm ẩn” mà thôi – nghĩa là nghe thì hiểu, nhưng diễn đạt thì không được. 
Phương pháp Natural Approat∫ cũng mô phỏng quá trình “nạp” tự nhiên này nhưng 
thông qua phương pháp “cưỡng bức” – nghĩa là người học phải lặp lại bài học, câu 
từ chuẩn bản xứ với số lần nhất định sẽ tạo ra một hiệu quả tương đương với quá 
trình nạp tự nhiên, nhưng thời gian thì rút ngắn hơn nhiều. Nhiều người cho rằng, 
việc chọn một môi trường nói tiếng Anh tự nhiên như câu lạc bộ nói tiếng Anh, 
hay giao tiếp với giáo viên bản xứ sẽ tương đương với quá trình này. Nhưng đây 
là sự sai lầm. Cả hai cách đều sử dụng chung từ “tự nhiên” không có nghĩa là nó 
giống nhau. Một quá trình tự nhiên từ mới sinh ra cho đến biết nói cơ bản cũng đã 
trải qua hàng năm trời, nhưng cũng sẽ chỉ dừng lại ở khả năng cơ bản nếu như 
không mất thêm vài năm nữa để luyện tập có hướng dẫn. Còn quá trình nghe nói tự 
nhiên như hình thức câu lạc bộ, giao tiếp trên lớp là một quá trình rất ngắn, 
lượng thông tin “nạp” không nhiều và tính lặp lại không cao, làm mất nhiều thời 
gian hơn mà vẫn không sử dụng được ngôn ngữ. Không cần nói bằng chứng vì 
chúng ta ai cũng trải qua hơn chục năm học theo kiểu này, trường Tây có, ta có, mà 
vẫn bị “mù” tiếng Anh. 
Phương pháp “lặp cưỡng bức” là quá trình lặp lại những cấu trúc văn nói chuẩn 
bản xứ cần thiết trong giao tiếp để tạo dựng “hệ ngôn ngữ tiềm ẩn”. Hệ ngôn ngữ 
tiềm ẩn này hơn hẳn hệ ngôn ngữ tự nhiên của một em bé vì nó còn thông qua quá 
trình chọn lọc có hiểu biết và định hướng. Khi được hướng dẫn “khai thông” thông 
qua “kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ” (Language Communnication Skill), hệ 
ngôn ngữ tiềm ẩn sẽ kết nối lô-gic với kiến thức và kinh nghiệm của từng người để 
truyền đạt thành lời nói. 
Quá trình “nạp ngôn ngữ” cũng sẽ hình thành nên “quán tính ngôn ngữ”. Nên nhớ 
rằng, những từ sai, câu sai, âm sai mà chúng ta đang sở hữu cũng do quá trình đọc 
sai, nói sai, nghe sai nhiều lần mà thành. Hãy nhớ lại thời gian đầu học một từ mới, 
chúng ta không biết đọc kiểu nào cho chuẩn xác, đôi khi nhấn chỗ này, đôi khi chỗ 
khác. Nhưng dần dần, khi đã xác định một kiểu đọc mà mình cho là đúng và liên 
tục đọc và nói từ đó, câu đó, chúng ta đã hình thành nên một quán tính. Nhưng do 
việc xác định ngữ âm ngữ điệu sai nên đã tạo ra một quán tính sai. 
Khi quán tính hình thành, có nghĩa là tiềm thức đã được kích hoạt, điều khiển quá 
trình “tự so khớp” (Auto Matching) với những gì mắt quan sát được, tai nghe được 
và tự báo cho não bộ những thông tin phản hồi cần thiết mà không cần sự can thiệp 
của bộ nhớ. Nhờ vậy, người học có thể chuyển đổi từ hình thức suy nghĩ và tìm 
kiếm trong bộ nhớ sang hình thức quán tính – có thể bật nhanh thành lời nói trong 
khi bộ não còn mãi mê tìm kiến thức cho những gì cần diễn đạt bằng ngôn ngữ. 
Điều này cũng tương tự như việc lái xe. Thời gian đầu học lái, chúng ta phải tập 
trung tinh thần rất cao độ mà việc lái xe vẫn không theo ý muốn. Nhưng khi mọi 
thứ trở thành quán tính, chúng ta đôi khi vừa lái xe, vừa suy nghĩ miên man mà xe 
vẫn được điều khiển trơn tru. Đó là quá trình tiềm thức điều khiển hành động. 
Chúng ta đôi khi cũng chọn cách là học thuộc lòng bài học. Nhưng để thuộc lòng, 
chúng ta chỉ cần lặp lại một câu nào đó khoảng 15-20 lần là thuộc. Nhưng thuộc 
lòng như thế chỉ giúp chúng ta nhớ được trong phạm vi khoảng vài tuần lễ rồi quên 
hoàn toàn bài học. Nếu đã quên bài học hay chỉ nhớ mơ hồ thì bạn không có cách 
nào chắc chắn khi nghe và hoàn toàn không có cách nào chọn đúng câu từ để nói 
nhanh được. Tuy rằng trong khi viết hay dịch có sự gợi ý của từ điển và có thời 
gian suy nghĩ thì bạn có thể hiểu được, nhưng khi nghe nói thì hoàn toàn không 
thể. 
Hơn nữa, phương pháp học hiện thời tạo ra cho người học một kiểu sử dụng ngôn 
ngữ bằng cách sử dụng văn hoá tiếng mẹ đẻ để hình thành câu từ và chuyển dịch 
sang ngôn ngữ bản xứ - tạo ra một kiểu “nhà quê lên tỉnh” mới (trong một trường 
hợp cụ thể, người Việt nói một câu hoàn toàn khác, dùng từ hoàn toàn khác với 
người bản xứ) và một sự khác biệt đến xa lạ về văn hoá mặc dù sử dụng chung một 
ngôn ngữ với người bản xứ nên không ai hiểu ai. 
Bản chất của ngôn là bắt chước, không phải tư duy. Chúng ta không thể học ngữ 
pháp, học từ vựng một cách riêng lẻ rồi tư duy lắp ghép theo dạng “râu ông này 
cắm cằm bà nọ”. Chúng ta phải “nạp” đủ cụm từ cần thiết, đủ cấu trúc cần thiết để 
hình thành “hệ ngôn ngữ tiềm ẩn” và phải thông qua quá trình “khai thông” mới có 
thể chuyển được thành lời nói. 
Quá trình “khai thông” 
Hãy nhớ lại quá trình một người Việt có thể nói được tiếng Việt. Đa phần sinh viên 
Việt Nam của chúng ta sau khi ra trường Đại học vài năm vẫn không có khả năng 
diễn đạt bằng ngôn ngữ. Mặc dù là người Việt, tiếng Việt một bụng nhưng mỗi khi 
cần phát biểu, trả lời một câu hỏi, hay diễn đạt một ý tưởng thì luôn ấp úng, nói 
không thành câu và không bao giờ diễn đạt hết những suy nghĩ của mình. Và cũng 
chính vì thế, một sinh viên mới ra trường hoặc chỉ có 2-3 năm kinh nghiệm sau khi 
ra trường không bao giờ được giao cho những việc quản lý hay lãnh đạo nhóm vì 
khả năng dẫn dắt và truyền đạt kém. Chính vì vậy, quá trình hơn kém 25 năm học 
và rèn luyện của một người sử dụng chính tiếng mẹ đẻ của mình cũng được cho là 
bị “câm” trong giao tiếp. 
Tiếng Việt mà chúng ta đã thế, vậy tiếng Anh chỉ đơn thuần là “nạp” thì làm sao có 
thể diễn đạt lưu loát? Nếu suy nghĩ là học tiếng Anh cho thuộc vào đầu thì có thể 
nói được thì quá ngây thơ. Quá trình này đã được chứng minh trên thực tế ở Việt 
Nam ta. Chúng ta học tiếng Anh đều hơn 10 năm mà vẫn chỉ ấp úng, ai hỏi thì trả 
lời chỉ vỏn vẹn được 1-2 câu. 
Quá trình rèn luyện để nói lưu loát tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ của chúng ta cũng 
không ít gian nan. Sau vài năm ra trường bị cho làm “nhân viên quèn”, bị chê bai 
không ít và chịu đau khổ cũng không ít, dần dần chúng ta tìm tòi, học hỏi và có thể 
diễn đạt được tiếng Việt tốt hơn. Đó là lúc chúng ta được công nhận và được giao 
cho những chức vụ lãnh đạo nhóm, “nói để người khác làm theo”. Chúng ta vượt 
qua quá trình gian nan đó để nói được chính tiếng mẹ đẻ của mình. Và đó cũng là 
cách thành công duy nhất trong ngôn ngữ. 
Chúng ta sai lầm trong việc học ngôn ngữ là do từ nhỏ người ta chỉ “dạy ngôn 
ngữ” mà không “dạy nói”. Chúng ta tự tìm tòi, mày mò, tự tìm cách đối phó trong 
lúc chúng ta cần giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất. Cách chúng ta sử dụng đầu tiên là 
suy nghĩ nhanh, đặt câu và thực tập nhanh trong đầu nhiều lần cho thuộc lòng, sau 
đó đứng lên nói như con vẹt. Nói hết rồi thì thôi. Khi ai hỏi thêm cũng không biết 
cách trả lời vì những câu từ chúng ta đặt ra để nói cho suông và những câu từ đó 
không có sự liên kết nào đến kiến thức và kinh nghiệm chúng ta đang có. Lúc 
chúng ta đặt câu thì có suy nghĩ đôi chút, nhưng lúc nói là hoàn toàn như một con 
vẹt, nói ra mà không hiểu mình đang nói gì. Lúc đó, chúng ta chỉ chú trọng đến 
việc nói làm sao cho đúng câu từ mình đã đặt. Vì thế, trong lúc nói, chúng ta đã xa 
rời với quá trình trải nghiệm thực tế của sự việc và kiến thức nên việc diễn đạt tiếp 
theo là hầu như không thể. 
Chúng ta đã học nói tiếng Việt như thế nên khi tốt nghiệp đại học, ra trường 2-3 
năm mà vẫn không tài nào diễn đạt được hết ý mình. Khi sang tiếng Anh, chúng ta 
cũng lại chọn cách thất bại đó để học. Cũng dễ hiểu thôi vì không ai dạy cho chúng 
ta nói, họ chỉ dạy ngôn ngữ mà thôi. Và kết quả là, ai trong chúng ta cũng trải qua 
hơn 10 năm học tiếng Anh mà kết quả được xem như là chưa biết gì. 
Quá trình “khai thông” là quá trình giúp người học “trải nghiệm lại” những gì đã 
trải qua, những gì đã học, đã đọc, đã nghe thấy Trải nghiệm lại cũng là quá trình 
kế thừa những gì đã làm, đã nghĩ, đã trải qua rồi, không phải suy nghĩ lại. Giả dụ 
như trong một cuộc thi yêu cầu bạn nói về chuyện kẹt xe ở TP.HCM, bạn bối rối 
không biết bắt đầu từ đâu, nhưng nếu bạn nhớ lại tất cả những lần kẹt xe gần đây 
với những tâm trạng khác nhau xảy ra lúc đó, bạn sẽ nói suốt 1 giờ đồng hồ không 
nghỉ. Và mỗi khi bạn nhớ và muốn diễn lại một hành động nào, quá trình “nạp” đã 
cho bạn câu từ tương ứng. Lẽ dĩ nhiên là bạn phải nạp đủ tần suất để ngôn ngữ trở 
thành quán tính. 
Hãy nhớ lại cách mà một người giỏi tiếng Việt đã làm. Họ chỉ gạch đầu dòng 
những ý chính cần nói, cốt để đừng quên ý. Khi họ diễn đạt một ý, họ bắt đầu diễn 
lại những kinh nghiệm của họ trong đầu. Khi những kinh nghiệm được tái diễn lại, 
nó chạy theo thứ tự thời gian trong đầu của người đó. Tất cả những gì họ cần làm 
là chọn những điều hay để nói ra mà thôi. 
Quá trình trải nghiệm này thông qua một kỹ năng gọi là kỹ năng giao tiếp bằng 
ngôn ngữ. Kỹ năng này mục đích hướng dẫn cho bạn biết, ý tiếp theo bạn cần nói 
là ý gì. Khi bạn nói một ý, mà bạn luôn biết ý tiếp theo cần nói là ý gì thì bạn đã 
diễn đạt được ý mình. 
Chính vì thế, quá trình “nạp ngôn ngữ” và quá trình khai thông để bạn nói lưu loát 
là hai quá trình độc lập nhau. Có khi bạn chưa nạp đủ nhưng hiểu rõ quá trình khai 
thông thì bạn có thể nói được uyên thuyên nhưng thiếu nhiều từ, cụm từ. Khi bạn 
đã nạp đủ nhiều nhưng chưa thấm nhuần phần khai thông, bạn cũng chỉ có thể 
nghe được mà không diễn đạt được thành lời như người khác. 
Phạm Việt Thắng 

File đính kèm:

  • pdfday_va_hoc_tieng_anh_theo_phuong_phap_natural_approat_2275.pdf
Tài liệu liên quan