Cơ cấu Việt Nho
I. TẠI SAO CƠ CẤU VIỆT NHO
1. Tại sao không việt lại nho?
Thưa vì nho với việt là một. Nói nho hay việt, việt hay nho cũng thế. Đấy là một lời quyết đoán khó có thể chấp nhận vì chữ Nho tuân theo một cú pháp ngược với cú pháp Việt, và nó xuất phát tự nước Tàu chứ có phải là của vô thừa nhận đâu để cho ai muốn kéo về với mình cũng được.
c học, quảng văn, thận tư, minh biện, đốc hành, chữ hán”. Câu này quả là một cái thang có năm bậc giúp đưa tới nhất quán cần được quảng diễn. a) Bậc nhất bác học Đây là bước cần thiết để tránh cái nạn hẹp hòi của ếch ngồi đáy giếng dễ bị ngưng trễ vào một góc. Do đó tuy chủ trương nhất quán mà vẫn khuyên “bác học ư văn, đa kiến nhi chi chi” (Đại cương 582) = cần học rộng nghe nhiều, tầm mắt phải quảng khoát để mà ghi nhận thâu thái. Có “do bác nhi ước”: từ sự rộng đi đến cái giản ước, cái cốt tủy thì cái ước, cái nhất quán mới khỏi nghèo nàn, nhỏ bé. Cũng vì thế có đọc nhiều mới biết đến các điểm khám phá của người khác, nhờ vậy vừa có thể hưởng dụng, vừa có thể khám phá ra những khía cạnh thực mới mà không sợ trùng hợp với việc đã làm rồi. Lão Tử nói “bác bất tri, tri bất bác” người học rộng không biết, người biết không học rộng”. Câu đó chỉ đúng khi người ta dừng lại ở đợt thứ nhất này, chứ thực ra nó cần thiết, có thể nói hầu hết các triết gia lớn đều đọc rất rộng, duy khác bác học ròng ở chỗ còn tiến lên 4 nấc sau. b) Quảng vấn Là bước thứ hai nhằm mở rộng phạm vi bác học và sửa soạn cho bước sau. Đây là một bước có tầm quan trọng nhiều khi quyết liệt đối với người học. Nếu nay gặp được một bạn đồng hành, một người niên trưởng đã lăn lộn trong biển học giới thiệu cho dăm ba cuốn sách, chỉ dẫn cho một hai hướng tiến thì nhiều khi lợi bằng cả mấy năm mò mẫm một mình. Vì thế nhiều người cho sự gặp gỡ đó là một ân huệ trời ban. Đây cũng là một phương thế đi tìm chân lý mà người khai thác triệt để là Socrates và công trình đó được ghi lại trong những “Đối thoại” bất hủ của Platon. Chữ Dialogue có nghĩa là tìm tòi chân lý xuyên qua (dia) lời nói (logos): một phương pháp mà người thời nay đang làm sống lại dưới hình thức trao đổi, đối thoại Có trao đổi, đối thoại mới nảy ra nhiều tia sáng lạ. c) Thận tư Thận tư là bước khởi đầu của triết lý, trong đó giúp người đọc góp phần tích cực hơn bằng sự phán đoán để lựa lọc. Ai thiếu bước này thì dễ coi mọi tác giả bằng nhau và không biết đặt ai lên trên, ai xuống dưới: lúc đó sẽ bị choáng váng vì nhận thấy trong làng triết không một ý kiến nào không bị bác bỏ. Nếu không có thận tư sẽ đâm ra hoang mang rồi rơi vào “tò mò muốn biết những cái khác nhau hoài để cho giải trí mà không có sự quy hướng vào một đích điểm, bấy giờ chỉ còn là tan rã (curiosité du divers et de la dispersion dans un divertissement sans consistance” (Grand Philos 41). Phải biết chọn lựa một số tác giả để chuyên đọc: tác giả nào đọc trước tác giả nào đọc sau. Đó sẽ là những việc quyết định mang nhiều hậu quả quan trọng vào đường hướng sống, có thể ví được với việc chọn bạn trăm năm vậy, nghĩa là một sự chọn lựa có khả năng thay đổi vận mạng của mình. Chọn được một hai tác giả rồi, lại học cho thấu triệt thì từ lúc đó mới là khởi đầu học triết thực sự, cái học mới có sức đào tạo đễ trở thành triết gia, còn nếu đọc nhiều không mà thôi thì mới chỉ là đọc cho biết: information et non pas formation. Khi bảo đi tìm nhất quán thì một trong những phương thế cụ thể là học cho thâm sâu một tác giả và cố tìm hiểu một cách sống động. Muốn được thế cần tiến thêm bước nữa là Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. d) Minh biện Đây là bước cuối cùng trong việc học hỏi, nó hệ tại sự chân nhận ra điểm then chốt nhất của tác giả mình khảo cứu để dùng làm sợi dây dẫn đạo đi vào cho tới cùng triệt. Đó là vai trò tích cực của sự phê bình. Thường người ta chỉ biết phê bình là khen chê, nhất là chê và nhiều khi để tỏ ra minh độc lập hiểu biết thì dầu không đáng chê cũng cố kiếm ra một cái chi để mà chê: thế mới là phê bình. Kỳ thực đó chỉ là cái tật phê bình để mà phê bình. Như vậy là không đúng chữ Minh biện cũng đồng nghĩa với chữ Krinein của Hy Lạp là gốc chữ Critique, nhưng bị người ngày nay hiểu thấp xuống nghĩa là khen chê, mà không hiểu là minh biện, tức là tìm ra cái điểm cốt cát nhất để làm linh động các phần khác. Việc này rất hệ trọng và một người học triết nếu không tìm ra được chi khác ngoài điều đó đã là có công đáng mặt triết gia rồi (E.Lippman 208). Vì quả thật học cho thấu triệt và trình bày lại cho hợp thời một triết thuyết xa xưa đòi rất nhiều sáng kiến có lẽ còn nhiều hơn cả khi lập một ý hệ hoàn tòan mới. Muốn làm được thế phải tìm ra điểm cốt yếu mà khai thác dưới đủ khía cạnh, đó là điều họa hiếm. Kinh Dịch nói “ai biết minh biện đó là triết gia”. “Minh biệt triết dã” (quẻ Đại hữu). Vậy mà bước này hiện thiếu nhất. Thận tư (penser) thì có nhiều, nhưng Minh biện (Krinein) hầu như không còn nữa. Heidegger nhận xét: tìm ra được một ý để nằm mãi mãi đó là điều cực kỳ khó khăn, nhưng đó cũng là tác động có nhiều tính chất triết lý trung thực nhất. Chúng ta có thể theo câu phương ngôn triết lý này: num quam negare, raro affrmare, semper distinquere: đừng bao giờ chối, đôi khi nên quyết đoán, nhưng luôn luôn phân biệt. Đừng chối vì bất cứ câu nào ta cho là sai lầm cũng vẫn có một khía cạnh đúng khiến cho người đối thoại của ta căn cứ vào đó mà khẳng định. Đôi khi nên quyết, cũng vì lý do trên, sự vật bao giờ cũng có hai chiều: quá quyết đoán là dễ thiên lệch. Vậy chỉ còn có tác động phân biệt xem chỗ nào phải, vì sao phải, vì sao trái. Nói khác là tìm ra được hệ thống quy chiếu của đối phương, là việc có thể mở rộng tầm nhãn giới ra rất xa nhiều khi đạt tới một hệ thống quy chiếu bao trùm được cả hai quan điểm khác nhau. Vì thế mà nói được rằng: mỗi phân biệt là mỗi bước tiến sâu vào sự xác định và biện biệt (un pas de précision et de differénciation) và như vậy là trở nên sâu sắc, vì sâu là gì nếu không là đem ánh sáng phân biệt chiếu rọi vào những cái còn mung lung hỗn tạp. Khi nào những phân biệt kia trở thành tế vi vượt qua những điều khái quát, thấu vào những chỗ âm u, thì lúc ấy là đạt được Minh biện, cũng là đạt nhất quán. đ) Đốc hành Đây là bước cuối cùng dính liền với Minh biện. Khi thực sự có minh biện thì liền có đốc hành, một sự hành đầy hăng say thành tín. Đốc có nghĩa là vững vàng, nghiêm chỉnh, thành khẩn, nó khác với cái hành trong những triết học duy hành (pragmatisme) thường chỉ có sự lợi ích nào đó thúc đẩy với tính cách ngoại khởi, có thể chỉ do một ý chí thôi thúc. Còn đốc hành là tính cách nội khởi, khỏi cần lợi lộc hối thúc, mà chỉ cần một nhận định sáng suốt đủ sức huy động toàn thể con người, làm thành bản hợp ca của ý, tình, chí đồng thanh hát bài “toàn sinh” tràn trề sức sống và sáng tạo, như Cassirer nhận xét: không còn phải là sự thống nhất những cái sản phẩm bên ngoài nữa, nhưng đó là sự thống nhất của một quá trình tạo dựng rồi: “not a unity of products but a unity of the creative process (On man 70). 5. Ba cây hợp lại Đó là đại để ý nghĩa 5 bậc thang cần phải phân ra để học cho phân minh, trong thực tế uyển chuyển thì cả 5 đều có thể thi hành đồng thời, hoặc có đợt nhấn lúc này hoặc nhấn mạnh lúc khác tùy mỗi người và hoàn cảnh. Để đặt nổi điểu đó thiết tưởng cần trình bày lối khác bằng quy lại ba bước tương đương với ba phép cộng, trừ, nhân. Phép cộng gồm hai động tác là bác học và quảng vấn, tương đối dễ: trong số đi học có thể đến 20, 30% thành công và trở thành nhà bác học. Nếu họ viết sử triết thì cả những tác giả chẳng gây ảnh hưởng nào vào đời sống hay chỉ có một lúc như Mặc Địch, Côn Tôn Long cũng được dành cho một số trang gần tương đương với Khổng, Lão, Thích, đọc lên chẳng gợi được cái gì ngoài truyện là báo cáo (information). Phép trừ gồm hai bước thận tư và phần nào minh biện, nó hệ tại sự biết gạn lọc đi rất nhiều những yếu tố rườm rà không mấy ơn ích ngoại trừ chút giá trị lịch sử khảo cổ, hàn lâm, để dành lại nhiều chỗ cho những yếu tố có giá trị sinh động, và những khám phá mới. Triết học chỉ khởi đầu từ phép trừ này. Phép nhân là đem cái ý tưởng Minh biện đã khám phá ra để thể hiện vào đời sống, để dùng kinh nghiệm tâm linh mà linh động hóa trở lại các ý tưởng đã thâu thái trong những cấp trước. Được như thế là trở thành triết gia. Trong số đi học có được một phần ngàn người trèo tới đây chăng? Dầu sao những sự phân biệt này phải hiểu cách uyển chuyển chứ không có mốc giới xác thiết. Sau đó ta có thể thêm phép chia hiểu là ban trải ra, thi thố ra cho người đời thừa hưởng, nhưng đó là hậu quả, còn chính ra thì ba phép trên làm nên nét nhất quán. Chữ quán xưa viết như chữ trung kép để biểu thị một cái dây xỏ qua hai cái vòng: vòng ngoài là phép cộng lại các cái học tự ngoài, còn vòng trong là phép trừ chỉ sự thải bỏ rườm rà để tìm ra nét chính thâu vào nội ngã. Còn nét giữa chỉ sự hiện thực ví được như xương sống tiêm vào cho toàn bộ một sự khỏe khoắn tinh thần. Đó là những việc cốt yếu để đi đến một nền nhất quán trung thực. Chân lý trên cũng có thể minh họa bằng ba tác động của tâm là ý, tình, chí (tâm chi tam tác dụng trí, tình, chí) có thể nhìn thấy được gói ghém trong chữ Triết kép bởi khẩu, cân, tài: triết. Chữ khẩu là miệng để chỉ lời nói. Lời nói là dấu hiệu của ý niệm mà ý niệm là sản phẩm của lý trí cho nên chữ khẩu biểu thị lý trí. Chữ cân là cái rìu khi cầm lấy, tay cầm thấy nặng, dùng vô ý đụng vào mình sinh đau đớn vậy dùng để biểu thị xúc cảm, tình tứ. Chữ thủ cũng gọi là tài gảy chỉ việc Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only. làm, sự hiện thực. Chính nó là sự nhất thống sinh động, unity of life, là linh hồn của nhất quán, nên cũng là của những nền triết lý trung thực. Triết lý là cái thang đưa con người thoát khỏi trạng thái man rợ, nhưng sở dĩ con người khó thoát ra được vì hoặc quá thiên về lý hoặc về tình mà không tìm ra trạng thái quân bình. Jung viết rằng: “L’état de barharie se reconnaite précisément à la détermination de la volonté par une seule fonction”, tình trạng rợ mọi được nhận ra khi ý chí bị quy định bởi một chứ năng duy nhất: đã lý thì thôi tình. Phải đạt cả ba ý- tình-chí mới đạt nhất quán vậy. Tác giả Kim Định Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software For evaluation only.
File đính kèm:
- co_cau_viet_nho_4101.pdf