Cải thiện phát âm về âm nối và âm rút gọn của sinh viên không chuyên tại Trường Đại học Sài Gòn bằng các bài nhạc Pop tiếng Anh
Phương pháp dạy phát âm về âm nối (liaisons) và âm rút gọn (elisions) qua nhạc pop tiếng Anh (English
pop songs) sau 9 tuần thực nghiệm có khả năng cải thiện kỹ năng phát âm của sinh viên. Chủ thể nghiên
cứu là nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Mỗi nhóm là 30 sinh viên được chọn từ 423 sinh viên
năm 2 hệ cao đẳng ngành Giáo dục Tiểu học Trường Đại học Sài Gòn. Tư liệu để dạy thực nghiệm là 9
bài nhạc pop tiếng Anh được thiết kế theo 3 dạng bài tập C-Test, Cloze-Test và Gap fill ngay trên lời
bài hát. Sinh viên vừa nghe nhạc vừa tìm ra các đáp án đúng chứa các âm nối và âm rút gọn. Phương
pháp nghiên cứu định lượng được vận dụng để thu thập số liệu từ pre-test và post-test.
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016 57 Cải thiện phát âm về âm nối và âm rút gọn của sinh viên không chuyên tại Trường Đại học Sài Gòn bằng các bài nhạc pop tiếng Anh Improving liaisons and elisions through English pop songs for non English majored students at Sai Gon University ThS. Võ Thúy Linh Trường Đại học Sài Gòn M.A. Vo Thuy Linh Sai Gon University Tóm tắt Phương pháp dạy phát âm về âm nối (liaisons) và âm rút gọn (elisions) qua nhạc pop tiếng Anh (English pop songs) sau 9 tuần thực nghiệm có khả năng cải thiện kỹ năng phát âm của sinh viên. Chủ thể nghiên cứu là nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Mỗi nhóm là 30 sinh viên được chọn từ 423 sinh viên năm 2 hệ cao đẳng ngành Giáo dục Tiểu học Trường Đại học Sài Gòn. Tư liệu để dạy thực nghiệm là 9 bài nhạc pop tiếng Anh được thiết kế theo 3 dạng bài tập C-Test, Cloze-Test và Gap fill ngay trên lời bài hát. Sinh viên vừa nghe nhạc vừa tìm ra các đáp án đúng chứa các âm nối và âm rút gọn. Phương pháp nghiên cứu định lượng được vận dụng để thu thập số liệu từ pre-test và post-test. Từ khoá: âm nối, âm rút gọn, nhạc pop tiếng Anh, thực nghiệm Abstract The method of teaching liaisons and elisions through English pop songs can help to improve students’ pronunciation. The research subjects were divided into an experimental group and a controlled group. Each group has 30 students chosen from 423 college sophomores of the primary education major of Sai Gon University. The experimental materials were nine English pop songs with exercises on the lyrics with three kinds of exercises like C-Test, Cloze-Test and Gap fill. The participants listened and at the same time looked for the answers to liaisons and elisions. The quantitative approach was used to collect the data from pre-test and post-test. Key words: liaisons, elisions, English pop songs, experimental 1. Đặt vấn đề Dạy tiếng Anh qua bài hát là một kỹ thuật thông dụng, nhưng nghiên cứu để ứng dụng dạy phát âm tại Trường Đại học Sài Gòn là một vấn đề cần quan tâm. Qua quan sát thực tế cho thấy rằng hiện nay sinh viên nói chung mắc lỗi phát âm nhiều. Sinh viên Trường Đại học Sài Gòn nói riêng, và đặc biệt là sinh viên không chuyên, kỹ năng nghe nói của họ rất thấp. Kết quả điểm số các buổi chấm thi và kiểm tra kỹ năng phát âm của sinh viên không 58 chuyên chỉ đạt khoảng 5% phát âm đúng, tỉ lệ sinh viên đạt điểm 0 xấp xỉ 36%, số còn lại hầu như là điểm dưới trung bình. Ngoài việc phát âm sai nguyên âm (vowels), phụ âm (consonants), trọng âm (stress), ngữ điệu (intonation), âm nối (liaisons) và âm rút gọn (elisions) là 2 loại âm mà sinh viên mắc phải trầm trọng nhất. Đây là nguyên nhân gây cho việc học và thực hành kỹ năng giao tiếp của họ bằng tiếng Anh bị hạn chế. Phương pháp dạy truyền thống như ghi chép lên bảng, yêu cầu sinh viên lặp lại theo cách đọc của giáo viên mà không tự học hoặc luyện tập nhiều chưa thật sự phù hợp và hiệu quả tại các lớp học tiếng Anh hiện nay. Lý do là phương cách dạy như thế không giúp sinh viên nhớ lâu và chưa khơi dậy được tinh thần học tập tích cực của sinh viên bởi sinh viên cảm thấy chán nản và buồn ngủ với việc luôn phải làm theo sự điều khiển của giáo viên. Từ những vấn đề của việc dạy và học phát âm nói trên, một phương pháp mới sáng tạo hơn trong việc dạy phát âm cần được đề xuất. Và bài viết này nhằm giới thiệu một giải pháp mới góp phần để giải quyết vấn đề phát âm của sinh viên và cung cấp cho giáo viên thêm một cách dạy phát âm phù hợp mang lại hiệu quả hơn và có khả năng kích thích được tinh thần học phát âm của sinh viên hơn với tựa đề "Cải thiện phát âm về âm nối (liaisons) và âm rút gọn (elisions) của sinh viên không chuyên tại Trường Đại học Sài Gòn bằng các bài nhạc pop tiếng Anh". 2. Cơ sở lý luận của việc dạy âm nối và âm rút gọn qua nhạc Pop tiếng Anh Stevick (1978: 145) định nghĩa rằng "Phát âm là phương tiện chính mà qua đó chúng ta sử dụng ngôn ngữ để tạo sự chú ý của người khác. Nó là một quá trình vật chất hóa các tính năng liên quan đến hệ thống âm thanh/âm vị, cấu trúc âm tiết, âm điệu (trọng âm và ngữ điệu) trong khi những thông điệp bằng lời nói được hình thành". Kiến thức về phát âm rất đa dạng và quan trọng với nhiều thành tố tạo thành như phụ âm (consonants), nguyên âm (vowels), trọng âm (stress), âm điệu (rhythms), ngữ điệu (intonation), âm nối (liaisons), âm rút gọn (elisions),... Tuy nhiên, trong bài viết này âm nối và âm rút gọn được nghiên cứu và giới thiệu. Theo Cook (2013), âm nối là âm thanh được phát ra từ việc nối lại giữa hai âm gần nhau. Âm nối được xem như là một sự liên kết và tạo ra từ âm liên kết giữa phụ âm cuối của một từ và nguyên âm đầu của từ cạnh sau nó. Brinton (2009) nhận thấy nếu người học thực hành tốt các âm nối thì họ dễ dàng thông thạo kỹ năng nghe nói trong tiếng Anh. Âm rút gọn được Roach (2009) phát biểu là âm thanh đầy đủ của một số từ bị biến mất hay được nhập gọn lại ở một số cụm từ trong tiếng Anh (tr.113). Ví dụ: we’ll (we will), he’s (he is/he has), I’d (I would). Ông cũng nói rằng việc học âm rút gọn thật sự cần thiết vì lưu loát âm rút gọn rất quan trọng trong giao tiếp với người bản xứ. Ngoài ra, thực tế giao tiếp bằng tiếng Anh cho thấy rằng âm nối và âm rút gọn rất hay nhưng rất khó và cần được chú trọng nghiên cứu nhiều. Bởi vì âm nối là âm của 2 từ riêng biệt gần nhau nối kết lại với nhau (ví dụ: like it /laik it/, think about you /θiηk ə'baut ju:/) giúp cho câu được mượt mà dễ phát âm hơn và chuyên nghiệp hơn. Âm rút gọn là dạng một cụm 2-3 từ (ví dụ: I’ve (I have), Let’s (let us)) được rút gọn lại thành một âm để làm cho câu nói gọn gàng hơn. Tuy nhiên, cả 2 loại âm này đều rất khó để người học nhận ra dù với tốc độ nói không quá nhanh. Hơn nữa, các âm nối và âm rút gọn sẽ tạo ra cách phát 59 âm đã được liên kết và tĩnh lược không giống với phiên âm quốc tế của các từ. Điều này đòi hỏi người học phải luyện tập nhiều và tinh tế nhận ra những âm nối và âm rút gọn, có như thế thì kỹ năng nghe, nói mới đạt yêu cầu, khả năng giao tiếp mới thành công. Về cách thức dạy các âm nối cũng được Brinton (2009) đề cập là chú ý các âm liền kề đặc biệt của các từ trong câu, cũng như Murcia và Marianne (1996) đề nghị phương thức dạy âm nối và âm rút gọn là giao nhiệm vụ cho người học đọc các câu và gợi ý để người học lưu ý phát âm qua bốn yếu tố: (1) vị trí ổ răng và lưỡi (letter), (2) các vần nối (C_V), (3) giảm nguyên âm trong âm tiết không nhấn, và (4) đơn giản hóa cụm phụ âm. Theo từ điển Macmillan, nhạc pop tiếng Anh được hiểu như một loại âm nhạc chơi bằng nhạc cụ điện tử và rất phổ biến với nhiều người. Nhạc pop gồm các bài hát ngắn với lời nhạc sâu lắng và giai điệu đơn giản mà dễ nhớ. Lamb (2014) cũng đồng ý rằng nhạc pop, là loại nhạc phổ thông chủ đạo thời gian xuất hiện từ khoảng 1950. Nhạc pop rất phổ biến, có giai điệu du dương và dễ đi vào lòng người như Take me to your heart, Give a little love, Miss you, Only love, ... Việc dạy phát âm qua bài hát tiếng Anh cũng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và thể hiện quan điểm tích cực về phương pháp này. Nambiar (1993) cho rằng nhạc pop tạo động lực học tập cho người học trẻ vì âm nhạc có khả năng khơi dậy cảm xúc và khiến họ sẵn sàng hát theo lời bài hát, qua đó học được cách phát âm (tr. 336). Nhạc pop quen thuộc và có sức hút giải trí mạnh đến giới trẻ (Dubin, 1975). Vì vậy, nhạc pop như một cánh cửa hướng đến ngôn ngữ mục tiêu mà người học muốn đạt được (Cheung, 2001). Theo Gatson (1968), âm nhạc mang nhiều lợi ích trong việc thúc đẩy tinh thần và tạo nên sự tự mãn cho người nghe. Bên cạnh đó, nhịp điệu của âm nhạc có tiềm năng độc đáo để làm tăng năng lượng cho người nghe khiến họ chú ý hơn, thích thú hơn để tiếp cận. Hơn nữa, nhạc pop có thể cung cấp nguồn thư giãn tinh thần cho người học và sự mới lạ trong việc truyền đạt kiến thức của người dạy (Võ Thúy Linh, 2015). Vì vậy, nhạc pop cung cấp công cụ giảng dạy hiệu quả tại các lớp ngôn ngữ (Griffee, 2010). Từ các lý thuyết đã nêu, việc dạy kỹ năng ngôn ngữ cho người học qua bài hát là vấn đề được nhiều quan điểm đồng thuận từ các nhà khoa học. Thật vậy, vấn đề dạy kỹ năng ngôn ngữ qua bài nhạc tiếng Anh đã có nhiều nhà nghiên cứu trước đó thực hiện như Lại Thanh Tình (2010), Engh (2013). Salcedo (2010), và Tavil & Isisag (2009). Các nhà khoa học này ủng hộ việc sử dụng bài hát như một công cụ giảng dạy tại các lớp học ngôn ngữ bởi âm nhạc vừa mang tính giải trí vừa có tính học thuật, có thể giúp người học vừa thưởng thức và tiếp thu kiến thức tốt. Họ đã minh chứng quan điểm chung này bằng những nghiên cứu về vận dụng bài hát để dạy phát âm về nguyên âm, phụ âm, từ vựng, ngữ pháp tiếng Anh... Tuy nhiên, phương pháp dạy âm nối và âm rút gọn bằng nhạc pop tiếng Anh vẫn chưa được những nhà khoa học này và các công trình nghiên cứu khác đề cập nhiều. Vì vậy, bài viết này sẽ bàn về phương pháp dạy phát âm qua các bài nhạc pop và âm nối và âm rút gọn trong tiếng Anh là hai thành tố được tác giả chọn để tiến hành thực nghiệm. Câu hỏi nghiên cứu của vấn đề được đặt ra như sau: Việc sử dụng nhạc pop tiếng Anh để dạy phát âm âm nối và âm rút gọn làm cải thiện kỹ năng phát âm của người học ở mức độ nào? 60 3. Phương pháp nghiên cứu và thiết kế thực nghiệm 3.1. Phương pháp nghiên cứu Chương trình thực nghiệm được tiến hành trong 9 tuần nằm trong khung thời gian của học kỳ I năm học 2014-2015 tại Trường Đại học Sài Gòn. Mẫu được chọn là 2 nhóm sinh viên chuyên ngành Giáo dục Tiểu học hệ cao đẳng. Mỗi nhóm gồm có 30 sinh viên, 1 nhóm là nhóm thực nghiệm được áp dụng dạy thực nghiệm âm nối và âm rút gọn qua các bài nhạc pop. Nhóm còn lại là nhóm đối chứng được dạy phát âm theo chương trình sách giáo khoa. Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên ra 2 nhóm từ 14 nhóm tổng cộng gồm 423 sinh viên. Sinh viên tham gia đảm bảo các điều kiện cùng độ tuổi và trình độ về phát âm căn cứ vào kết quả các bài kiểm tra và các bài thi về phát âm của trường từ học kỳ trước. Thông tin về năm sinh cung cấp độ tuổi của sinh viên được cung cấp từ Phòng Đào tạo qua các danh sách lớp học. Phương pháp thực nghiệm (experimental research) được sử dụng trong bài nghiên cứu này là loại hình nghiên cứu và đo lường hiệu quả của việc áp dụng các thử nghiệm trên các nhóm (Seliger và Shohamy, 1989). Tiếp thu quan điểm của Parkinson và Drislane (2011), tác giả sử dụng phương pháp định lượng để thu thập và phân tích số liệu từ kết quả của bài kiểm tra đầu (pre-test) và cuối khóa (post-test). Để chương trình thực nghiệm được tiến hành, tác giả đã thiết kế thực nghiệm như sau: Công cụ để lấy dữ liệu là bài kiểm tra đầu khóa (pre-test) và bài kiểm tra cuối khóa (post-test). Tài liệu để dạy thực nghiệm là 9 bài nhạc pop tiếng Anh, bao gồm các bài Proud of you, Miss you, Only love, Give a little love, The day you went away, Take me to your heart, That is love, Cry on my shoulder và Happy new year. Trước khi chương trình thực nghiệm được bắt đầu, sinh viên của cả 2 nhóm sẽ làm bài kiểm tra đầu khoá (pre-test). Pre- test được thực hiện vào đầu chương trình là để tác giả đo và đảm bảo trình độ của 2 nhóm là như nhau. Cấu trúc pre-test và post-test giống nhau gồm 2 phần nhận dạng (Recognition) có 26 mục trắc nghiệm và phát âm (Production) có 14 mục. Mục đích của tác giả là để kiểm tra trình độ và kỹ năng của người học trong nhận thức và thực hành phát âm tiếng Anh theo từ và câu. Khi chương trình dạy thực nghiệm kết thúc, sinh viên của 2 nhóm làm bài kiểm tra cuối (post-test) để giáo viên thu thập số liệu, so sánh kết quả và tìm ra sự khác biệt giữa 2 nhóm sau thực nghiệm. 3.2. Thiết kế thực nghiệm Giáo viên là người thực tiếp thiết kế chương trình và dạy thực nghiệm cho cả 2 nhóm thực nghiệm và đối chứng. Chương trình thực nghiệm được thực hiện như sau: 3.2.1. Quy trình thiết kế tài liệu giảng dạy của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng Đầu tiên, giáo viên soạn một giáo án riêng để dạy phát âm các âm nối và âm rút gọn bằng 9 bài nhạc pop cho 9 buổi dạy thực nghiệm. Lời bài hát đựợc in ra giấy và được thiết kế bỏ trống các từ hoặc ký tự chứa các âm nối và âm rút gọn theo 3 dạng bài tập C-Test (bỏ trống một nữa từ), Cloze test (bỏ trống trọn 1 từ) và gap fill (trống 1từ, trắc nghiệm với 3 đáp án) tương ứng mỗi dạng bài tập ứng với 3 bài hát. Các bài nhạc pop được chọn là những bài hát tiếng Anh phổ biến và quen thuộc với người học. Các bài hát được sắp xếp xen kẻ để xuất hiện đều đặn lần lượt 3 dạng bài tập C-Test - Cloze test - Gap fill với thứ tự bài hát từ rất quen thuộc, giai điệu trầm bổng nhẹ nhàng đến những bài hát ít quen thuộc hơn, có nhịp điệu nhanh hơn. Mỗi bài hát được 61 lược bỏ 10 chổ trống tại các vần, các kí tự, các từ có chứa các âm nối và âm rút gọn. Mỗi sinh viên nhóm thực nghiệm ở mỗi buổi sẽ nghe bài hát 2 lần, vừa nghe vừa hoàn thành bài tập trên lời bài hát. Giáo viên cung cấp kiến thức về âm nối và âm rút gọn cho sinh viên dựa vào các đáp áp đúng của các bài tập trên lời bài hát. Sau đó, giáo viên yêu cầu sinh viên tìm thêm các ví dụ khác để thực hành tại lớp các từ, cụm từ chứa âm nối và âm rút gọn trên lời bài hát. Lý do giáo viên muốn lấy các ví dụ ngay trên lời bài hát là để sinh viên nhận biết các từ, cụm từ chứa âm nối và âm rút gọn tương tự có sẵn và đảm bảo việc thực nghiệm phát âm của giáo viên và sinh viên được nghiêm túc thực hiện trên một tài liệu duy nhất là nhạc pop. Đối với nhóm đối chứng, giáo án dạy phát âm trong 9 tuần đươc giáo viên soạn theo chương trình sách giáo khoa International Express (new edition) of Keith Harding & Liz Taylor, Oxford University Press. Các bài 5, 6, 7 và 8 là 4 trong 12 bài được giáo viên dạy thực nghiệm. Kiến thức về phát âm âm nối và âm rút gọn trong 4 bài học được giáo viên chia đều để dạy trong 9 buổi học. Tuy nhiên, việc phân bổ kiến thức về các thành tố phát âm trong sách cũng như trong 4 bài học này là không đồng đều và đầy đủ. Điều này đòi hỏi người dạy thực nghiệm phải tư duy để nhóm đối chứng sắp xếp 1 chương trình dạy phát âm hợp lý cân bằng về thời lượng đối với nhóm thực nghiệm. Về phương pháp dạy được giáo viên áp dụng kỹ thuật dạy thông thường, sinh viên thực hiện theo những gì giáo viên hướng dẫn và ghi chép. 3.2.2. Tiến trình thực hiện Tiến trình thực hiện chương trình thực nghiệm trong 11 tuần. Tuần 1: Sinh viên làm pre-test. Tuần 2 đến tuần 10: giáo viên dạy thực nghiệm cả 2 nhóm. Tuần 11: sinh viên làm bài kiểm tra cuối. Tiến trình thực hiện đối với nhóm thực nghiệm: Bước 1: Giáo viên phát lời bài hát có chứa bài tập đến từng sinh viên. Bước 2: Giáo viên hướng dẫn cách làm bài tập đối với từng dạng bài tập C- Test, Cloze test hoặc Gap fill. Bước 3: Giáo viên bật máy nghe trình phát 2 lần bài nhạc pop tiếng Anh cần dạy của từng buổi. Bước 4: Sinh viên vừa nghe nhạc vừa làm bài tập. Bước 5: Giáo viên gọi 1 sinh viên bất kì lên bảng ghi đáp án. Bước 6: Giáo viên sửa các đáp án và yêu cầu sinh viên phát âm theo giáo viên. Bước 7: Giáo viên tiến hành dạy âm nối và âm rút gọn trên các từ, cụm từ đáp án. Bước 8: Giáo viên yêu cầu sinh viên phát âm lại tất cả các đáp án và tìm ví dụ khác tương tự có chứa âm nối và âm rút gọn ngay trên lời bài hát. Bước 9: Giáo viên yêu cầu sinh viên tự phát âm các ví dụ vừa tìm và sửa lỗi phát âm cho sinh viên. Bước 10: Giáo viên cho sinh viên thời gian ghi chép và ôn tập phát âm lại tất cả các từ cum từ chứa âm nối và âm rút gọn trong buổi thực nghiệm. Tiến trình thực hiện đối với nhóm đối chứng: Bước 1: Giáo viên giới thiệu bài học phát âm của buổi học Bước 2: Giáo viên viết các từ chứa các âm nối, âm rút gọn lên bảng và đọc to 3 lần. Bước 3: Giáo viên yêu cầu sinh viên đọc theo giáo viên. Bước 4: Giáo viên ghi thêm từ 2-3 ví dụ các từ tương tự và đọc to. Bước 5: Giáo viên yêu cầu sinh viên tự đọc và giáo viên sửa lỗi. 62 Bước 6: Giáo viên yêu cầu sinh viên làm việc theo cặp và tập luyện phát âm các từ và các cụm từ đã dạy. Bước 7: Giáo viên yêu cầu sinh viên tự luyện tập phát âm các từ đã học tại nhà. Các số liệu từ kết quả thực nghiệm sẽ được phân tích và so sánh bằng thuật toán ANOVA của phần mềm xử lý số liệu SPSS để biết được sự khác biệt về phát âm của sinh viên 2 nhóm giữa trước và sau chương trình thực nghiệm. Chỉ số Sig (2 tailed) nếu lớn hơn 0.05 thì kết quả sau thực nghiệm không có gì khác biệt so với ban đầu. Ngược lại, nếu chỉ số Sig (2 tailted) nếu nhỏ hơn 0.05 thì kết quả phát âm trước và sau thực nghiệm là có sự khác biệt về trình độ phát âm về âm nối và âm rút gọn giữa 2 nhóm. 4. Kết quả và thảo luận Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu “Việc sử dụng nhạc pop tiếng Anh để dạy phát âm âm nối và âm rút gọn làm cải thiện kỹ năng phát âm của người học ở mức độ nào?", kết quả pre-test và post-test được phân tích và so sánh tìm ra sự khác biệt giữa hai nhóm trước và sau khi thực nghiệm. Qua đó, mức độ sinh viên cải thiện được trong kỹ năng phát âm cũng được xác định. Kết quả của pre-test được thể hiện qua biểu đồ sau: Bảng 1. Tỉ lệ đáp án đúng âm nối và âm rút gọn của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng từ kết quả của bài kiểm tra đầu (pre-test). Loại âm Âm nối Âm rút gọn Nhóm Hình thức Nhóm thực nghiệm Nhóm đối chứng Nhóm thực nghiệm Nhóm đối chứng Nhận thức (recognition) 15% 18% 16% 16% Thực hành (production) 12% 10% 12% 12% Bảng 2. So sánh kết quả bài kiểm tra đầu khoá (pre-test) về âm nối và âm rút gọn của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm Independent Samples Test Levene's Test for Equality of Variances t-test for Equality of Means F Sig. T Df Sig. (2-tailed) Mean Difference Std. Error Difference 95% Confidence Interval of the Difference Lower Upper So_sanh_nhan _thuc_am_noi _va_am_rut_g on_hai_nhom _trong_pretest Equal variances assumed 1.448 .234 .317 58 .753 .10000 .31568 -.53191 .73191 Equal variances not assumed .317 55.153 .753 .10000 .31568 -.53260 .73260 63 Từ bảng 1, tỉ lệ câu trả lời đúng về nhận thức âm nối của nhóm thực nghiệm của nhóm đối chứng là 18%, âm rút gọn của 2 nhóm đều đạt 16%. Số phần trăm đáp án đúng của phần thực hành phát âm âm nối và âm rút gọn của nhóm thực nghiệm đều là 12%, của nhóm đối chứng là 10% và 12%. Các tỉ lệ thấp này cho thấy trình độ phát âm về âm nối và âm rút gọn của sinh viên 2 nhóm rất hạn chế. Hầu hết sinh viên gặp khó khăn khi nghe và nói tiếng Anh vì họ không thể nhận ra và phát âm các âm rút gọn và âm nối. Hầu như tỉ lệ phần trăm của các nhóm hầu như không chênh lệch nhau và đều rơi vào tình trạng chưa đạt 20%. Điều này cho thấy trình độ phát âm về âm nối và âm rút gọn của sinh viên 2 nhóm là hạn chế như nhau. Chỉ số Sig (2 tailed) ở bảng số 2 là 0.753 lớn hơn 0.05, điều này nói lên rằng kỹ năng và trình độ phát âm của 2 nhóm thể hiện qua pre-test là không có sự khác biệt. Kết quả này thoã điều kiện nghiên cứu ban đầu vì trình độ sinh viên ngang nhau, tính khách quan trong nghiên cứu được đảm bảo. Kết quả bài kiểm tra cuối (post-test) được trình bày như sau: Bảng 3. Tỉ lệ đáp án đúng âm nối và âm rút gọn của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng từ kết quả của bài kiểm tra cuối (post-test). Loại âm Âm nối Âm rút gọn Nhóm Hình thức Nhóm thực nghiệm Nhóm đối chứng Nhóm thực nghiệm Nhóm đối chứng Nhận thức (recognition) 50% 21% 44% 18% Thực hành (production) 2
File đính kèm:
- cai_thien_phat_am_ve_am_noi_va_am_rut_gon_cua_sinh_vien_khon.pdf