Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh của sinh viên không chuyên
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu nhu cầu học tiếng Anh và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu
học tiếng Anh của sinh viên không chuyên Anh. Một trăm lẻ hai sinh viên đang học năm thứ 2
chuyên ngành Công nghệ thông tin (CNTT) tại một Trường Cao đẳng tại Thành phố Hồ Chí Minh
được mời trả lời bảng câu hỏi. Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS. Kết quả nghiên
cứu cho thấy rằng sinh viên chuyên ngành CNTT có nhu cầu học tiếng Anh khá cao, và các yếu tố
như tự học, giảng viên giảng dạy TACN, và môi trường học và tài liệu học tập, và nghề nghiệp
tương lai có mối liên hệ tích cực với nhu cầu học tiếng Anh của các sinh viên chuyên ngành CNTT.
100 Nguyễn Đ. N. Hà và Trần Q. Thao. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 100-111 CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHU CẦU HỌC TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN KHÔNG CHUYÊN NGUYỄN ĐÌNH NHƯ HÀ1 và TRẦN QUỐC THAO2,* 1Trường Cao đẳng Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh 2Trường Đại học Công Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh *Email: tq.thao@hutech.edu.vn (Ngày nhận: 03/06/2019; Ngày nhận lại: 17/06/2019; Ngày duyệt đăng: 16/09/2019) TÓM TẮT Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu nhu cầu học tiếng Anh và các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh của sinh viên không chuyên Anh. Một trăm lẻ hai sinh viên đang học năm thứ 2 chuyên ngành Công nghệ thông tin (CNTT) tại một Trường Cao đẳng tại Thành phố Hồ Chí Minh được mời trả lời bảng câu hỏi. Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng sinh viên chuyên ngành CNTT có nhu cầu học tiếng Anh khá cao, và các yếu tố như tự học, giảng viên giảng dạy TACN, và môi trường học và tài liệu học tập, và nghề nghiệp tương lai có mối liên hệ tích cực với nhu cầu học tiếng Anh của các sinh viên chuyên ngành CNTT. Từ khóa: Nhu cầu học tiếng Anh; Tiếng Anh không chuyên; Tiếng Anh chuyên ngành; Yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh; Yếu tố Factors affecting non-English majors’ English learning needs ABSTRACT This study aims to investigate non-English majors’ English learning needs and the factors affecting their English learning needs. This study was conducted with responses from 102 second- year non-English majors at one Ho Chi Minh City college. The data collected from the questionnaires were analyzed by SPSS. The findings indicated that there were fairly high needs for non-English majors. It was also seen that the factors including lecturers, learning autonomy, learning environment and learning materials, and future careers were positively correlated with non-English majors’ needs. Keywords: English learning needs; non-English majors; English for specific purposes; factors affecting English learning needs; factors 1. Đặt vấn đề Thế giới đang bước vào thời kì tri thức, xã hội hóa phồn vinh ở thế kỉ XXI phải là một xã hội của tri thức và dựa vào tri thức, vào tư duy sáng tạo của con người. Điều này đòi hỏi người lao động cũng phải biết tự đổi mới kiến thức và năng lực của mình cho phù hợp với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Người lao động phải có khả năng tự định hướng và vươn lên để thích ứng với đòi hỏi của xã hội. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng 4.0, sinh viên khối ngành kỹ thuật và công nghệ nước ta có cơ hội được tiếp xúc hàng ngày với những thay đổi nhanh chóng của khoa học và công nghệ. Song song với những thay đổi trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, sự hiện diện của tiếng Anh càng đóng vai trò quan trọng hơn. Đặc biệt là tiếng Anh chuyên ngành với hàng loạt thuật ngữ khoa học, với Nguyễn Đ. N. Hà và Trần Q. Thao. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 100-111 101 cách diễn đạt rất đa dạng trong các lĩnh vực khoa học kĩ thuật và công nghệ. Như vậy, vai trò của việc dạy và học tiếng Anh chuyên ngành ở các trường Đại học và Cao đẳng trong giai đoạn hiện nay là vô cùng to lớn và mang tính chất quyết định chất lượng của quá trình hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, tiếng Anh sẽ là công cụ mở đường để giúp người học sớm tiếp cận cơ hội làm việc ngay khi vừa mới tốt nghiệp. Một số nghiên cứu đã chỉ ra việc đào tạo tiếng Anh chuyên ngành (TACN) cho sinh viên nước ta hiện nay chưa hợp lý dẫn đến sinh viên ra trường rất yếu kỹ năng này, ảnh hưởng đến sự phát triển nghề nghiệp (Đỗ Thị Xuân Dung & Cái Ngọc Duy Anh, 2010; Hoàng Văn Vân, 2008). Nỗi lo các doanh nghiệp hiện nay là các kỹ sư của các Trường Đại học và Cao đẳng ra trường rất yếu tiếng Anh chuyên ngành và chính vì thế dẫn đến sự chậm tiến bộ trong công việc. Hầu hết các doanh nghiệp đều thể hiện quan ngại với khả năng tiếp cận công việc của các kỹ sư sau khi tốt nghiệp, bởi lẽ hầu hết những công việc đòi hỏi tính kỹ thuật đều sử dụng tiếng Anh và đặc biệt tiếng Anh chuyên ngành để phục vụ cho quá trình vận hành và hoạt động sản xuất. Cũng như các môn học khác, việc lĩnh hội tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên không chuyên sẽ là điều kiện giúp các em sớm đạt được công việc và vị trí mong muốn. Sau khi tốt nghiệp, với kiến thức chuyên môn giỏi và vốn tiếng Anh thông thạo, các kỹ sư sẽ dễ dàng chinh phục được các nhà tuyển dụng và tiếp cận công việc trở nên dễ dàng hơn. Với những vấn đề được đề cập, nghiên cứu này sẽ đi tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến việc học tiếng Anh của các sinh viên không chuyên. Nội dung các câu hỏi nghiên cứu sẽ được giải quyết như sau: 1. Nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên không chuyên tại một Trường Cao đẳng ở Thành Phố Hồ Chí Minh như thế nào? 2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên không chuyên tại một Trường Cao đẳng ở Thành Phố Hồ Chí Minh là gì? 3. Các yếu tố ảnh hưởng có mối liên hệ với nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên không chuyên như thế nào? 2. Cơ sở lý thuyết Trong phần này tác giả sẽ trình bày các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu: nhu cầu học tập và các yếu tố liên quan đến nhu cầu học tập; và trình bày đến các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên. 2.1. Nhu cầu học tập Nhu cầu học tập là một trong những nhu cầu tinh thần đặc trưng của con người. Nhu cầu học tập là đòi hỏi và nhu cầu thiết yếu của người học nhằm lĩnh hội kiến thức, tri thức và những trải nghiệm thực tế có giá trị của những thế hệ đi trước để lại. Trong học thuyết nhu cầu Maslow (1970: trích bởi Cherry, 2018) chỉ ra nội dung về nhu cầu của con người bao gồm: nhu cầu cơ bản và nhu cầu bậc cao. Maslow cho rằng con người luôn đấu tranh và nỗ lực để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau. Những nhu cầu cơ bản được ưu tiên chú trọng trước vì chúng sẽ là nguồn định hướng quan trọng để đạt được nhu cầu cao hơn. Trong mối liên hệ với nhu cầu học tiếng Anh của sinh viên không chuyên, việc học TACN được xem như là nhu cầu cơ bản và thiết yếu bởi lẽ các sinh viên đều có nhu cầu tìm kiếm được công việc tốt trong tương lai và được thể hiện năng lực ngoại ngữ của cá nhân song song với kiến thức chuyên ngành. Tác giả McLeod (2007) cho rằng chỉ khi những nhu cầu cơ bản được thỏa mãn thì người ta sẽ có thể đạt đến thang nhu cầu cao hơn và nhu cầu đó được gọi là nhu cầu tự thể hiện bản thân. Đặc biệt, trong thời đại công nghiệp 4.0, vốn TACN vững chắc sẽ giúp người học khẳng định được bản thân trong môi trường làm việc hơn. Mỗi người học cũng cần có những mục tiêu để đi đến và nhu cầu mong muốn để đạt được như: nhu cầu được hiểu và được thỏa mãn nội dung học tập, được học trong môi trường 102 Nguyễn Đ. N. Hà và Trần Q. Thao. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 100-111 đầy đủ tiện nghi, được phát biểu những kiến thức chuyên ngành bằng chính tư duy và sự hiểu biết bản thân, được tự khám phá và tìm hiểu kiến thức, được sử dụng kiến thức đã học vào công việc tương lai. Trong bối cảnh nghiên cứu này, tác giả xây dựng mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh của sinh viên. Từ thực tế công tác giảng dạy và phỏng vấn thực tế tại các lớp học. Tác giả sẽ chú trọng phân tích và tìm hiểu mối liên hệ giữa các yếu tố: giảng viên giảng dạy TACN, môi trường học và tài liệu học tập, việc tự học và nghề nghiệp tương lai với nhu cầu học tiếng Anh của sinh viên không chuyên. 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên Giảng viên giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành Năng lực và phẩm chất nhân cách của người giáo viên giảng dạy TACN chính là “tài” và “đức” và được thể hiện thông qua các giá trị về: lối sống, lập trường chính trị, xã hội, cái nhìn về nhân sinh quan, thế giới quan, thái độ và đặc biệt kiến thức vững chắc về chuyên ngành đang giảng dạy Goonetilleke (1989). Giáo viên giảng dạy TACN cần thiết phải có sự chuẩn bị thấu đáo về việc giảng dạy các lý thuyết, hiểu được mong đợi của người học và nắm bắt được sự thay đổi liên tục của công nghệ (Madhavilantha, 2014, p.7). Theo tác giả Goonetilleke (1989) đề cập rằng “không dễ dàng để tìm kiếm được một giáo viên chuyên ngành hiểu biết tốt lĩnh vực của người học.” (p.45) Tuy nhiên một số thực tế về đội ngũ giáo viên giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành vẫn còn nhiều bất cập. Theo tác giả Đỗ Thị Xuân Dung và Cái Ngọc Duy Anh (2010) phần lớn giáo viên chuyên ngành là những người có kiến thức chuyên môn giỏi nhưng chưa được tập huấn về phương pháp giảng dạy ngoại ngữ. Milavic (2006) cho rằng giáo viên giảng dạy TACN vừa phải là một giáo viên giảng dạy tiếng Anh tốt vừa là một chuyên gia trong lĩnh vực đảm nhận. Giáo viên giảng dạy TACN có những vai trò khác nhau (Swales, 1988) trong đó phải đề cập đến vai trò của Nhà giáo dục. Những giáo viên giảng dạy TACN phải thường xuyên cập nhật thông tin đến các lĩnh vực chuyên ngành cả về tiếng Anh, và chuyên ngành giảng dạy, có phương pháp sư phạm hợp lý trong việc kiểm tra, đánh giá người học và đặc biệt xử lý tốt các tình huống sư phạm xảy ra trong lớp học. Môi trường học và tài liệu học tập Môi trường học và tài liệu học tập đóng góp một phần quan trọng trong việc lĩnh hội kiến thức của người học. Môi trường học tập là những yếu tố bên trong và bên ngoài lớp học có thể ảnh hưởng đến việc tiếp nhận kiến thức của người học. Môi trường học tập vì thế cực kì quan trọng đối với giáo viên và sinh viên. Bởi lẽ, môi trường học tập ảnh hưởng đến cách người dạy truyền đạt kiến thức như thế nào và người học tiếp nhận kiến thức ra sao. Theo Dudley-Evans và St. John (1998) các môi trường học tập TACN phải thể hiện được lĩnh vực chuyên ngành của người học. Việc trang bị các thiết bị dạy học, sử dụng đường truyền kết nối Internet, hệ thống âm thanh lớp học và các hình ảnh trực quan không thể thiếu trong các lớp học TACN. Bên cạnh đó tài liệu học tập phục vụ cho việc giảng dạy TACN đóng vai trò cũng rất cần thiết. “Tài liệu học tập là bất cứ điều gì có thể sử dụng để giúp giảng dạy. Đó có thể là giáo trình, sách bài tập, CD, các tạp chí, sách báo và hình ảnh, đoạn văn bản được viết trên bảng mà thể hiện nội dung bài học” (Tomlinson,1998). Đối với sinh viên chuyên ngành tài liệu TACN phải luôn được cập nhật thường xuyên để theo kịp với những xu thế và công nghệ mới. Yếu tố tự học Yếu tố tự học xuất phát từ những nhu cầu cần lĩnh hội kiến thức của người học, như Knowles (1975) mô tả “Tự học là một quá trình mà người học tự lĩnh hội kiến thức mà không có sự trợ giúp của người khác, họ tự xác định nhu cầu, hình thành mục tiêu, xác định nguồn tài liệu học tập, xây dựng chiến lược học tập và tự đánh giá kết quả học tập.” Theo Knowles (1975), có 3 lý do cho việc tự học như sau: tự Nguyễn Đ. N. Hà và Trần Q. Thao. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 100-111 103 học giúp người học nhanh tiếp thu kiến thức, tự học là bản năng vốn có của người học và tự học là cần thiết vì kiến thức luôn thay đổi và phát triển từng ngày. Trong định nghĩa của Little (1991), yếu tố tự học được xem như khả năng tự chủ kiến thức, phản ánh vấn đề, đưa ra quyết định và hành động độc lập. Trong việc học TACN, người học cần phải có khả năng hoạt động động độc lập, tự tìm hiểu và đánh giá tài liệu chuyên ngành mà không cần sự trợ giúp của giáo viên. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nếu người học có cái nhìn đúng đắn về việc tự học và tự lĩnh hội kiến thức thì việc tiếp thu và nâng cao khả năng tiếng Anh chuyên ngành sẽ trở nên dễ dàng hơn. Yếu tố nghề nghiệp tương lai Nghề nghiệp ổn định là sự kỳ vọng của hầu hết các sinh viên khi ra trường. Tuy nhiên trong thực tế tỉ lệ thất nghiệp của sinh viên vẫn còn đang là vấn đề nan giải cho các nhà quản lý. Ngày 24/12/2015, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết tính đến quý 3 của năm 2015 cả nước có 1 triệu 130 ngàn người ở độ tuổi lao động bị thất nghiệp. Bên cạnh đó, để cạnh tranh tốt trong thời đại công nghiệp 4.0 ngoài kiến thức chuyên ngành sinh viên phải đạt được những kỹ năng cần thiết khác để có thể làm việc tốt và tìm kiếm được cơ hội việc làm phù hợp. Trong đó tiếng Anh là công cụ hiệu quả giúp sinh viên dễ dàng tìm kiếm công việc trong hầu hết các loại hình doanh nghiệp. Lưu Quý Khương (2008) tiến hành một nghiên cứu về nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành điện – điện tử tại Trường Cao đẳng công nghiệp Huế với kết quả 76,6% sinh viên khi được hỏi về mục đích học tiếng Anh chuyên ngành, họ đều có câu trả lời là để giao tiếp tại nơi làm việc. Nguyễn Thế Hân, Ngô Thị Hoài Dương, Trần Thị Huyền và cộng sự (2016) tiến hành khảo sát vai trò tiếng Anh trong công việc tương lai, có 97% sinh viên đánh giá rất quan trọng. 2.3. Lịch sử nghiên cứu Trong bài nghiên cứu nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành của sinh viên chuyên ngành Du lịch tại Trường Đại học Constanta, Lavinia (2007) đã chỉ ra rằng có 92.6% sinh viên học tiếng Anh để phục vụ cho nghề nghiệp tương lai. Các sinh viên được khảo sát cho thấy rằng họ nhận thức rõ về sự cần thiết phải phát triển kĩ năng tiếng Anh để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Trong bài nghiên cứu về động cơ học tập tiếng Anh của Navickiené V. và các cộng sự (2015) về động cơ học tiếng Anh – cụ thể tiếng Anh chuyên ngành tại trường Đại học Klaipeda, tác giả đã khảo sát được có đến 95% sinh viên học tiếng Anh chuyên ngành vì nó cần thiết cho sự nghiệp tương lai và nâng cao trình độ. Lan, Khaun và Singh (2011) đã tiến hành nghiên cứu về việc xác định năng lực và kĩ năng ngôn ngữ mà các sinh viên đại học cần phải đáp ứng tại công sở. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tiếng Anh được sử dụng rộng rãi tại các cơ quan làm việc vì hầu hết các nhiệm vụ cụ thể được thực hiện hầu hết bằng tiếng Anh. Các khóa học tiếng Anh chuyên ngành giúp người học định hướng được các kĩ năng tiếng Anh cần thiết cho nghề nghiệp tương lai mà người học sẽ gặp phải trong môi trường làm việc. Widdowson (1998) khẳng định rằng “Tiếng Anh tổng quát thiếu tính cụ thể và thiếu mục đích hơn tiếng Anh chuyên ngành.” Bởi lẽ tiếng Anh tổng quát chỉ giúp người học tiếp cận những kiến thức cơ bản nhất trong tiếng Anh, trong khi đó tiếng Anh chuyên ngành sẽ giúp người học sớm đạt được vị trí làm việc ổn định hơn với năng lực và kĩ năng ngoại ngữ của mình. Chính vì thế, việc xác định mục đích học tập cụ thể cũng như tìm kiếm công việc tương lai ổn định, được sử dụng và trau dồi tiếng Anh thường xuyên trong công việc sẽ giúp người học có động cơ học tập đúng đắn hơn. Bên cạnh đó nhận thức tầm quan trọng về TACN sẽ giúp người học chuẩn bị tốt cho các vị trí làm việc đòi hỏi sử dụng tiếng Anh sau này. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Nơi nghiên cứu Nghiên cứu này được thực hiện tại một Trường Cao đẳng ở Thành phố Hồ Chí Minh 104 Nguyễn Đ. N. Hà và Trần Q. Thao. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 100-111 trực thuộc Bộ Công Thương và trường được thành lập năm 1976. Số lượng chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm của Trường là 4,300 sinh viên, với 10 khoa đào tạo chuyên ngành: Ngoại ngữ, Kế toán – tài chính, Quản trị kinh doanh, Cơ khí, Cơ khí động lực, Điện - điện tử, Công nghệ thông tin, Công nghệ hóa học và thực phẩm, Dệt may, và Da giày. Trong thời gian 3 năm học tại Trường, các sinh viên khối ngành kinh tế và kĩ thuật được học 3 học phần Anh văn căn bản và 1 học phần tiếng Anh chuyên ngành. Khoa Ngoại ngữ phụ trách đảm nhận giảng dạy học phần tiếng Anh căn bản và tiếng Anh chuyên ngành. Học phần TACN được giảng dạy vào học kì 2 của năm thứ 2 với thời lượng giảng dạy là 30 tiết. 3.2. Đối tượng khảo sát 102 sinh viên được phát bảng hỏi nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh chuyên ngành. Đối tượng khảo sát là các sinh viên năm thứ 2 đang theo học các lớp tiếng Anh chuyên ngành Tin. Tất cả sinh viên đều đã hoàn thành chương trình tiếng Anh phổ thông 7 năm (từ lớp 6 – 12), trong đó có 67.3% sinh viên đang ở trình độ Trung cấp và 32.7% sinh viên có trình độ Sơ cấp. Bên cạnh đó tác giả cũng dựa vào điểm tổng kết các học phần Anh văn căn bản để đánh giá rõ hơn về trình độ tiếng Anh của các sinh viên, có đến 41.7% sinh viên có thang điểm tổng kết từ 5.0 – 6.0, 45% sinh viên có thang điểm tổng kết từ 6.0 – 7.0 và 13.3% sinh viên có thang điểm tổng kết trên 7.0. 3.3. Công cụ nghiên cứu Bảng câu hỏi được thiết kế dựa theo mục đích nghiên cứu bao gồm 2 phần: phần 1 là những câu hỏi về thông tin của đối tượng nghiên cứu và phần 2 là các câu hỏi liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu học tiếng Anh của sinh viên không chuyên. Nó gồm 36 câu theo 5 mức độ từ hoàn toàn không đồng ý đến hoàn toàn đồng ý và được chia thành 5 nhóm câu hỏi. Bảng 1 cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha của bảng hỏi thiết lập được sử dụng trong trường hợp nghiên cứu này từ mức .75 trở lên. Điều này có nghĩa là bảng câu hỏi có độ tin cậy cao. Bảng 1 Hệ số Cronbach’s Alpha của bảng hỏi nghiên cứu Số lượng câu hỏi Cronbach’s Alpha Nhu cầu học TACN 7 .75 Giảng viên giảng dạy TACN 10 .87 Môi trường học và tài liệu học tập 6 .88 Tự học của sinh viên 7 .61 Nghề nghiệp tương lai 6 .84 3.4. Phương pháp lấy dữ liệu và tích dữ liệu Để thu thập dữ liệu, bảng hỏi được phát đến các sinh viên đang theo học tại lớp tiếng Anh chuyên ngành Tin trong khoảng thời gian 2 tuần. Sinh viên có 15 phút đầu giờ học để đọc và đưa ra lựa chọn phù hợp cho từng thông tin được hỏi. Dữ liệu sau khi thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS (phần mềm thống kê phân tích dữ liệu) phiên bản 22. Chỉ số trung bình được phân tích theo: hoàn toàn không đồng ý (1.00 - 1.80); không đồng ý (1.81 - 2.60); không ý kiến (2.61 - 3.40); đồng ý (3.41 - 4.20) và hoàn toàn đồng ý (4.21 - 5.00). 4. Kết quả và bàn luận 4.1. Kết quả 4.1.1. Nhu cầu học tiếng Anh của sinh chuyên chuyên ngành CNTT Theo Bảng 2 cho thấy chỉ số trung bình của nhu cầu học tiếng Anh của sinh viên Nguyễn Đ. N. Hà và Trần Q. Thao. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 100-111 105 chuyên ngành CNTT là 3.67 (S.D=.60). Điều này có nghĩa là sinh viên chuyên ngành CNTT có nhu cầu học tiếng Anh khá cao. Bảng 2 Chỉ số trung bình của nhu cầu học tiếng Anh của SV chuyên ngành CNTT N = 102 M S.D. Nhu cầu học tiếng Anh 3.67 .60 Trong đó: N: tổng số; M: Trung bình; S.D: Độ lệch chuẩn Cụ thể, kết quả khảo sát ở Bảng 3 đề cập về nhu cầu học tiếng Anh của sinh viên chuyên ngành CNTT, sắp sỉ ¾ (câu 1.6: 74.5%) sinh viên cho rằng nhu cầu học TACN vì muốn cập nhật các tài liệu bằng tiếng Anh và có đến 67.6% (câu 1.5) sinh viên muốn giao tiếp thường xuyên bằng tiếng Anh với giáo viên chuyên ngành và 72.5% (câu 1.1) muốn sử dụng tiếng Anh trong công việc tương lai. Điều đó cho thấy các em đã xác định rõ nhu cầu học tập đúng đắn của bản thân đối với việc học TACN. Bên cạnh đó các sinh viên cũng đã thể hiện được quan điểm không đồng ý ở mức độ rất thấp khi được hỏi về nhu cầu sử dụng tiếng Anh để tìm kiếm công việc lương cao và muốn sử dụng tốt các kỹ năng tiếng Anh (8.9%, câu 1.3 và 1.4). Đây là một tín hiệu đáng quan tâm bởi lẽ các em đã nhận thức được việc trau dồi kiến thức tiếng Anh của bản thân cho các công việc tương lai sau này. Bảng 3 Mức độ đồng ý về nhu cầu học tiếng Anh của SV chuyên ngành CNTT Nội dung Mức độ đồng ý (%) (N=102) Nhu cầu học tiếng Anh 1 2 3 4 5 1.1. Bạn muốn được thường xuyên sử dụng tiếng Anh trong công việc tương lai 4.9 2.9 19.7
File đính kèm:
- cac_yeu_to_anh_huong_den_nhu_cau_hoc_tieng_anh_cua_sinh_vien.pdf