Các phương thức chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga sang Tiếng Việt
Giới từ tiếng Nga được sử dụng với tần suất cao, có phạm vi sử dụng rộng lớn. Tuy không đóng
vai trò là thành phần câu, nhưng giới từ làm rõ hơn chức năng cú pháp của các thành phần trong
câu, cũng như khu biệt ý nghĩa của các dạng cách mà khi kết hợp với các dạng cách đó chúng thể
hiện các mối quan hệ khác nhau. Tiếng Nga và tiếng Việt khác nhau về loại hình ngôn ngữ nên
không thể tránh khỏi một số khó khăn khi dịch giới từ tiếng Nga sang tiếng Việt. Lý luận dịch
ngôn ngữ xem xét việc dịch thuật như là sự chuyển mã, sự cải biến các ngôn ngữ, sự hoạt động
sáng tạo ngôn ngữ từ văn bản gốc ra văn bản dịch. Nhiệm vụ của người dịch là phải đưa ra được
sự tương đương về nghĩa giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích. Trong bài viết này, chúng tôi
khảo sát và đưa ra một số nhận xét về khả năng chuyển dịch ý nghĩa của giới từ tiếng Nga sang
tiếng Việt từ góc độ tương đương dịch thuật.
n quan chức, Phan Hồng Giang dịch) Она участвовала во всех суетностях большого света, таскалась на балы, где сидела в углу, разрумяненная и одетая по старинной моде, как уродливое и необходимое украшение бальной залы. (Пушкин A. C., Пиковая дама) Bà ta tham dự vào tất cả những cuộc vui của giới thượng lưu, la cà ở khắp các nơi khiêu vũ. Phấn sáp ngồn ngộn, ăn mặc theo kiểu cổ xưa, bà đến đấy, ngồi ở một góc phòng, hình như để làm một thứ ngáo ngộp, một thứ trang trí quái gở của phòng khiêu vũ. (Puskin А. X., Con đầm bích, Phương Hồng dịch) Bên cạnh các ví dụ nêu trên, phương thức dịch nguyên gốc còn được sử dụng với các giới từ khi kết hợp với danh từ dùng làm tên gọi cho các tác phẩm văn học: Месяц в деревне (Тургенев И.) – Một tháng ở quê (Nhị Ca dịch); Неделя в Тургеневе (Тольстой А.) – Một tuần ở Turghenhep (Trần Duy Thanh dịch); После бала (Толстой Л.) – Sau cuộc khiêu vũ (Nguyên Hùng dịch). 2.3.2. Phương thức dịch chuyển nghĩa Khi sử dụng phương thức dịch chuyển nghĩa (сематический способ), dịch giả không chú ý tới dịch cấu trúc câu mà chú trọng tới việc chuyển tải ý nghĩa được thể hiện trong văn bản. Cách dịch này chỉ dựa trên cấp độ nội dung thông tin của văn bản: Впрочем, вы меня навели на мысль и задали мне долгую думу; нo я подумаю после, а теперь признаюсь вам, что правду вы говорите. (Достоевский Ф. М., Белые ночи) Nhưng ông cũng đã gợi cho em một ý để em phải suy nghĩ, nhưng điều đó để sau, còn bây giờ em thú nhận với ông là ông nói đúng. (Đôxtôevxki F. M., Đêm trắng, Đoàn Tử Huyến dịch) Любовь не приходила ему на ум, - а уже видеть графиню каждый день было для него необходимо. (Пушкин A. C., Арап Петра великого) Ibraghim không hề nghĩ đến tình yêu, nhưng bây giờ được thấy mặt bá tước phu nhân mỗi ngày một bận đối với Ibraghim đã thành một việc không thể hiểu được. (Puskin A. X., Người da đen của Piốt Đại đế, Hoàng Tôn dịch) Phương thức dịch chuyển nghĩa cũng được dùng để chuyển dịch ý nghĩa của giới từ trong các tên gọi tác phẩm văn học sau: Корзина с еловыми шишками (Паустовский К.) – Lẵng quả thông (Kim An dịch); 73KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 DỊCH THUẬT v В конце концов (Полевой Б.) – Kết cục (Nguyễn Xuân Sanh dịch); Двадцать дней без войны (Симонов К.) – Hai mươi ngày không có chiến tranh (Trần Duy Thanh dịch); В сторону заката солнца (Платонов А.) – Về phía mặt trời lặn (Đình Cao dịch). 2.3.3. Phương thức dịch văn học Dịch văn học (литературный перевод) là phương thức dịch giữ nguyên được ý nghĩa ngữ cảnh của văn bản gốc và ý nghĩa này được chuyển tải ở dạng mà cả ngữ cảnh và ngôn ngữ văn bản đều được độc giả chấp nhận. Phương thức dịch văn học chuyển tải nghĩa của văn bản gốc ở dạng ngôn ngữ văn học chuẩn mực. Vì sự khác biệt về mặt cấu trúc cú pháp của ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích, nên dịch giả khó giữ nguyên được lớp vỏ hình thức của văn bản ngôn ngữ nguồn khi chuyển dịch. Để đảm bảo tính chính xác của việc chuyển tải ngữ nghĩa, dịch giả có thể thay đổi cấu trúc câu tương ứng với chuẩn mực ngôn ngữ và văn phong ở ngôn ngữ đích. Đôi khi dịch giả không nhất thiết phải dịch căn ke từng từ sang từ: По степи, влево от нас, поплыли тени облаков, пропитанные голубым сиянием луны, они стали прозрачней и светлей. (Максим Горкий, Старуха Изергиль) Bên trái, bóng mây nhuốm ánh trăng xanh lướt trên thảo nguyên, mây trở nên trong hơn và sáng hơn. (Makxim Gorky, Bà lão Idécghin, Phạm Mạnh Hùng dịch) Каждый голос женщин звучал совершенно отдельно, все они казались разноцветными ручьями и, точно скатываясь откуда-то сверху по уступам, прыгая и звеня, вливаясь в густую волну мужских голосов, плавно лившуюся кверху, тонули в ней, вырывались из неё, заглушали её и снова один за другим взвивались, чистые и сильные, высоко вверх. (Максим Горкий, Старуха Изергиль) Một giọng nữ lanh lảnh nghe tách bạch hẳn, ta có thể mường tượng đó là những dòng suối muôn màu từ trên cao đổ xuống các khối đá, reo rắt vọt tung lên hòa vào làn sóng giọng nam dày đặc đang nhịp nhàng cuộn lên, chìm ngập trong làn sóng đó, rồi lại bứt ra át hẳn mọi âm thanh ấy, giọng này tiếp giọng kia, lại vút lên cao, trong trẻo và mạnh mẽ. (Makxim Gorky, Bà lão Idécghin, Phạm Mạnh Hùng dịch) “Что, если, - думал он на другой день вечером, бродя по Петербургу, - что, если старая графиня откроет мне свою тайну!...” (Пушкин А. С., Пиковая дама) “chiều tối hôm sau, trong khi đi dạo chơi trên những đường phố của thành Peterburg, anh lại nghĩ vấn vương: Giá bà bá tước ấy truyền cho ta cái bí quyết kia nhỉ!...” (Puskin A. X., Con đầm bích, Phương Hồng dịch) Phương thức dịch trên cũng được áp dụng trong các trường hợp dịch giới từ trong các tiêu đề tác phẩm văn học: Последний из Удэге (Фадеев A.) – Người cuối cùng của bộ tộc Uđêghê (Bùi Hiển dịch); Сказка о рыбаке и рыбке (Пушкин А.) – Câu chuyện ông lão đánh cá và con cá vàng (Cao Xuân Hạo dịch); 74 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 v DỊCH THUẬT Наедине с осенью (Паустовский А.) – Một mình với mùa thu (Phan Hồng Giang dịch) Qua việc phân tích các ví dụ trên cho thấy: vì dịch thuật được hiểu là hoạt động chuyển đổi cách diễn đạt giữa ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ mục tiêu, nên khi dịch giới từ người dịch phải có kỹ năng xử lý linh hoạt câu từ ở cả hai ngôn ngữ. Do sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa và tư duy dân tộc nên hiện tượng tương đương hoàn toàn không phải là hiện tượng phổ biến trong dịch thuật. Khi dịch các giới từ, dịch giả có nhiệm vụ chuyển tải ý nghĩa của chúng một cách trung thành với nghĩa có trong văn bản gốc, tuy nhiên trong nhiều trường hợp người dịch có thể bổ sung, làm giàu các ý nghĩa đó bằng các phương tiện có trong ngôn ngữ đích sao cho phù hợp với ngôn cảnh và thỏa mãn được nhu cầu thẩm mỹ của bạn đọc. Tùy từng hoàn cảnh cụ thể và tùy vào đối tượng tiếp nhận thông tin mà dịch giả có thể lựa chọn các phương thức chuyển dịch khác nhau như dịch nguyên gốc hoặc dịch kèm theo giải nghĩa để làm rõ nội hàm thông tin, dịch kèm theo thực tiễn để người tiếp nhận thông tin dễ hiểu hoặc dịch tóm tắt ý.... Bên cạnh việc dịch đúng, dịch giả còn phải thể hiện sự uyển chuyển trong từng câu chữ nhằm tạo sức thu hút với người đọc. Tính linh hoạt trong dịch thuật được thể hiện qua sự mềm dẻo của người dịch trong việc xử lý, phân tích nghĩa của từ, lựa chọn phương án dịch tối ưu có tính đến các yếu tố như tính bản địa hóa, các điểm tương đồng và khác biệt trong tư duy dân tộc, các nét đặc trưng về đất nước, văn hóa, con người của ngôn ngữ đích, cũng như tâm lý, trình độ nhận thức của đối tượng tiếp nhận thông tin.... 3. KẾT LUẬN Giới từ là từ loại hư từ thể hiện các mối quan hệ cú pháp giữa danh từ và các từ loại khác, cũng như giữa các danh từ với nhau. Giới từ cũng như các từ loại khác có thể là từ đơn nghĩa hoặc đa nghĩa. Hầu như tất cả các giới từ nguyên sinh đều là giới từ đa nghĩa. Nhiều giới từ trong tiếng Nga có khả năng kết hợp với nhiều hơn một dạng cách của danh từ và có khả năng thể hiện các mối quan hệ ngữ nghĩa khác nhau. Việc phân tích số lượng lớn các ví dụ thu thập được từ các tác phẩm văn học nghệ thuật cho phép chúng tôi khái quát lại một số phương thức chuyển dịch giới từ như sau: phương thức dịch nguyên gốc, phương thức dịch chuyển nghĩa và phương thức dịch văn học. Mỗi phương thức chuyển dịch được thể hiện bởi các phương tiện ngôn ngữ riêng, tạo nên sự khác biệt và độc đáo của các văn bản dịch./. Tài liệu tham khảo: 1. Đôxtôevxki F. M., Đoàn Tử Huyến dịch, (2004), Đêm trắng, NXB Thế giới, Hà Nội. 2. Gorki M. (1986), Bà lão Idécghin, NXB “Ngoại văn”, Hà Nội, Phạm Mạnh Hùng dịch. 3. Puskin A. X. (1999), Con đầm bích, NXB Văn Nghệ, TP. HCM, Phương Hồng dịch. 4. Puskin A. X., Người da đen của Piốt Đại đế, Hoàng Tôn dịch, truy cập ngày 26/6/2017, <Truyen.com <www.Imvn.com/truyen/index.ph p?func=viewpost&id=37rGỦd5q97...>. 5. Академия наук СССР (1982), Русская Грамматика, Издательство “Наука” М.. 6. Достоевский Ф. М. (2004), Белые ночи, Изд. “Thếgiới”, Ханой. 7. Горький М. (1986), Старуха Изергиль, Изд. “Ngoạivăn”, Ханой. 8. Комиссаров В. И. (2000), Современное переводоведение, Курс лекций. Изд. “ЭТC”, Москва. 9. Латышев Л. К. (2001), Технология перевода, Москва, НВИ – ТЕЗАУРУС. 10. Львовская З. Д. (1985), Теоретические проблемы перевода, Москва, “Высшая школа”. 11. В.Д. Стариченкo (2012), Cовременный русский литературный язык, Минск “Вышэйшая школа”. 12. Пушкин A. C., Пиковая дама, truy cập ngày 26/6/2017, <www.ilibrary.ru/text/480/p.1/ index.html>. 13. Пушкин A. C., Арап Петра великого, truy cập ngày 26/6/2017, <www.rvb.ru/ puskin/01text/06 prose/0856.htm>. 75KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 08 - 7/2017 DỊCH THUẬT v METHODS OF CONVEYING THE MEANINGS OF RUSSIAN PREPOSITIONS INTO VIETNAMESE EQUIVALENTS DOAN THUC ANH, TRAN THI THANH TRA Abstract: Russian prepositions are being used with a high frequency, they have a wide and variable range of usage. Russian prepositions don’t have any role as a part in a sentence’s structure, however, they clarify the syntactic functions of the parts in a sentence, as well as make a distinction between the meanings of words in different forms that when combine with these words in different forms, they can express different relationships. A preposition can be used to express many different relationships and vice versa, many prepositions can be used to express a semantic relationship when combine with a notional word. This study went in depth in analyzing the characteristics of Russian prepositions and suggested some methods to convey the meanings of Russian prepositions in Vietnamese. Keywords: syntactic function, semantic characteristics, preposition, methods of conveying the meanings. Received: 25/4/2017; Revised: 26/6/2017; Accepted for publication: 28/6/2017
File đính kèm:
- 82_7066_2137267.pdf