Các lỗi thường gặp trong bài viết số 2, bài thi cuối kỳ tiếng Anh 3 của sinh viên Trường đại học y - Dược - Đại học Thái Nguyên và đề xuất giải pháp
Nghiên cứu này khảo sát các lỗi phổ biến trong Phần 2, Bài thi Viết cuối Học phần 3, của sinh viên
trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên dựa trên các tiêu chí theo Khung năng lực ngoại
ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam (VSTEP) về Mức độ hoàn thành yêu cầu đề bài, Từ vựng, Ngữ
pháp, và Bố cục của bài viết. Các nguyên nhân gây ra lỗi cũng được tính đến và một số giải pháp
để nâng cao chất lượng của các bài viết đã được đề xuất. Phương pháp nghiên cứu định tính và
định lượng được sử dụng trong nghiên cứu này kèm theo sự vận dụng đúng quy trình của một
nghiên cứu về việc phân tích lỗi được đưa ra bởi nhà ngôn ngữ học Corder (1973). Dữ liệu thu
thập được từ 226 bài viết cho thấy rõ sự ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, việc dùng sai các cấu trúc
ngôn ngữ, sự thiếu liên kết kiến thức ngôn ngữ và xã hội. Kết quả của nghiên cứu có tính ứng dụng
cao cho quá trình dạy và học kỹ năng Viết. Việc nhận diện và phân tích các lỗi trong các bài viết
khi được đánh giá theo Khung tham chiếu VSTEP cũng mang đến một cái nhìn toàn diện hơn cho
giảng viên và sinh viên trong quá trình học tập để đạt đến trình độ B1 và sau B1.
ISSN: 1859-2171 e-ISSN: 2615-9562 TNU Journal of Science and Technology 209(16): 42 - 47 Email: jst@tnu.edu.vn 42 CÁC LỖI THƯỜNG GẶP TRONG BÀI VIẾT SỐ 2, BÀI THI CUỐI KỲ TIẾNG ANH 3 CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP Nguyễn Thị Hồng Nhung* Trần Thị Quỳnh Anh, Đào Hồng Phương Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Nghiên cứu này khảo sát các lỗi phổ biến trong Phần 2, Bài thi Viết cuối Học phần 3, của sinh viên trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên dựa trên các tiêu chí theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam (VSTEP) về Mức độ hoàn thành yêu cầu đề bài, Từ vựng, Ngữ pháp, và Bố cục của bài viết. Các nguyên nhân gây ra lỗi cũng được tính đến và một số giải pháp để nâng cao chất lượng của các bài viết đã được đề xuất. Phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng được sử dụng trong nghiên cứu này kèm theo sự vận dụng đúng quy trình của một nghiên cứu về việc phân tích lỗi được đưa ra bởi nhà ngôn ngữ học Corder (1973). Dữ liệu thu thập được từ 226 bài viết cho thấy rõ sự ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ, việc dùng sai các cấu trúc ngôn ngữ, sự thiếu liên kết kiến thức ngôn ngữ và xã hội. Kết quả của nghiên cứu có tính ứng dụng cao cho quá trình dạy và học kỹ năng Viết. Việc nhận diện và phân tích các lỗi trong các bài viết khi được đánh giá theo Khung tham chiếu VSTEP cũng mang đến một cái nhìn toàn diện hơn cho giảng viên và sinh viên trong quá trình học tập để đạt đến trình độ B1 và sau B1. Từ khóa: Các lỗi của kỹ năng viết; khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam; kỹ năng viết; nguyên nhân các lỗi khi viết; nâng cao kỹ năng viết. Ngày nhận bài: 12/11/2019; Ngày hoàn thiện: 19/11/2019; Ngày đăng: 02/12/2019 COMMON ERRORS IN STUDENTS’ WRITING PART II, 3 RD TERM FINAL EXAM, IN THAI NGUYEN UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY, AND SOLUTIONS Nguyen Thi Hong Nhung * Tran Thi Quynh Anh, Dao Hong Phuong TNU - University of Medicine and Pharmacy ABSTRACT The study was conducted to assess the common writing errors in Part 2, 3 rd Term Final Exam, of students at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy basing on the criteria of Vietnamese Standardized Test of English Proficiency (VSTEP): Task Fulfillment, Vocabulary, Grammar, and Organization. In the process, the causes of errors were taken into account and some solutions to enhance the quality of students‟ written works were proposed. The qualitative and quantitative method were used in this study, adopting Corder (1973) Steps of error analysis. Data collected from 226 pieces of writing clearly revealed the influence of mother tongue, overgeneralization, and the limitation of sociolinguistics. The findings of this study are highly applicable to the process of teaching and learning Writing skill. The identification and analysis of errors in writing when evaluated in the VSTEP Reference Frame also provide a more comprehensive view for teachers and students during the learning process to reach level B1 and after B1 level. Keywords: Writing errors; Vietnamese standardized test of english proficiency; writing skill; causes of writing errors; writing skill enhancement. Received: 12/11/2019; Revised: 19/11/2019; Published: 02/12/2019 * Corresponding author. Email: nguyennhungdhtn@gmail.com Nguyễn Thị Hồng Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 42 - 47 Email: jst@tnu.edu.vn 43 1. Đặt vấn đề Trong nhiều thập kỷ trở lại đây, việc dạy và học tiếng Anh đã luôn luôn chú trọng vào việc phát triển đầy đủ và đồng đều cả bốn kỹ năng cơ bản nhằm nâng cao tính hiệu quả của quá trình giao tiếp bằng tiếng Anh. Trong đó, kỹ năng Viết là kỹ năng đòi hỏi nhiều sự luyện tập và tổng hợp kiến thức, đang ngày càng trở thành một kỹ năng quan trọng trong việc thúc đẩy sự tri nhận của người học đối với ngôn ngữ thứ hai [1]. Do vậy, việc phát hiện và phân tích các lỗi trong các bài viết đóng vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp cho người dạy cái nhìn tổng quan và sâu sắc về sự tiến bộ và sự thiếu hụt trong quá trình tiếp thu và vận dụng ngôn ngữ [2]. Theo phương pháp truyền thống, việc đánh giá kỹ năng viết của người học thường được thông qua việc hoàn thành câu sử dụng từ gợi ý, điền từ hay viết một đoạn văn. Tuy nhiên, do nhu cầu giao tiếp ngày càng đa dạng, người học ngày nay đã tiếp cận với nhiều định dạng viết khác nhau và viết thư điện tử đang là sự lựa chọn rộng rãi bởi tính thực tế và sự đáp ứng yêu cầu của người học ở mức độ B1 theo khung tham chiếu Châu Âu (CEFR). Nhiều nghiên cứu về phương pháp giảng dạy ngoại ngữ đã lấy định dạng của bài viết thư điện tử để phát triển kỹ năng viết [3] và tiến hành phân tích các lỗi của người học ngoại ngữ. Trong nghiên cứu này, bối cảnh để tiến hành khảo sát và phân tích các lỗi ở kỹ năng Viết tiếp tục được thực hiện trên các thư điện tử được viết bằng tiếng Anh, nhưng dưới góc độ của các tiêu chí theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam (VSTEP). Nghiên cứu sẽ cung cấp một phân tích ngôn ngữ rõ ràng cho giáo viên và sinh viên trong quá trình học tập và rèn luyện kỹ năng Viết cũng như đưa ra các gợi ý nhằm nâng cao chất lượng của các bài viết. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Khảo sát và tìm ra những lỗi phổ biến trong các bài viết của sinh viên Các tiêu chí để đánh giá bao gồm: • Mức độ hoàn thành yêu cầu của đề bài. • Từ vựng. • Ngữ pháp. • Bố cục của bài viết. 2.1.2. Xác định nguyên nhân chủ yếu gây ra các lỗi trong bài viết. 2.1.3. Giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng của bài viết. 2.2. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện dựa trên 226 bài viết thư điện tử, Phần 2 trong bài thi kết thúc học phần tiếng Anh 3 của sinh viên trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên. Các bài viết được viết bởi các sinh viên của các Chuyên ngành khác nhau như Y đa khoa, Dược, Y học dự phòng..., do vậy đảm bảo được tính khách quan và độ phổ rộng. 2.3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng được sử dụng trong nghiên cứu này kèm theo sự vận dụng đúng quy trình của một nghiên cứu về việc phân tích lỗi được đưa ra bởi nhà ngôn ngữ học Corder [4]: - Thu thập dữ liệu - Nhận diện các lỗi - Miêu tả các lỗi - Giải thích các lỗi - Đánh giá/ Sửa lỗi. 2.4. Thu thập dữ liệu Trong nghiên cứu này, mỗi bài viết được lựa chọn và phân tích một cách có chủ đích dựa trên yêu cầu về việc sinh viên không bỏ trống bài hay chỉ viết được một vài chữ không đủ để tiến hành khảo sát và phân tích. Số lượng các lỗi được tổng hợp và tính phần trăm để tìm ra sự phổ biến xuất hiện. Phương pháp này của Corder cũng đã được áp dụng bởi nhiều nghiên cứu trước đây như Chastian, 1990[5]; Frantzen, 1995 [6]; Kobayashi & Rinnert, 1992; Kroll, 1990 [7]. Sau khi được thu thập, các lỗi này được phân loại dựa theo các tiêu chí đánh giá của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam. Việc khảo sát từ các nghiên cứu đi trước, từ sách xuất bản và từ các cuộc phỏng vấn và xin Nguyễn Thị Hồng Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 42 - 47 Email: jst@tnu.edu.vn 44 góp ý của các giảng viên tiếng Anh trong và ngoài Trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên, đã tìm ra được một số nguyên nhân phổ biến sắp xếp theo nhóm các lỗi thường gặp, và từ đó các giải pháp được đề xuất. 2.5. Xử lý dữ liệu Dữ liệu thu thập từ các bài viết được phân tích theo các bước bằng cách sử dụng phần mềm phân tích thống kê cho các nghiên cứu điều tra xã hội học (SPSS). Phương pháp phân tích miêu tả cũng được sử dụng. Các lỗi và ví dụ minh họa của từng loại lỗi được thể hiện trong các bảng biểu ở các phần dưới đây. 3. Kết quả và bàn luận 3.1. Mức độ hoàn thành yêu cầu của đề bài (Task Fulfilment) Có tất cả 226 bài viết được khảo sát và hầu hết các bài viết đều viết đủ số từ theo yêu cầu của đề bài; tuy nhiên, trong đó có 32 bài viết chiếm khoảng 14% chỉ đạt đến mức điểm 2 trên thang điểm 10 của VSTEP (Biểu đồ 1). Một vài bài viết có nội dung không đề cập đến yêu cầu của bài hoặc gây hiểu nhầm hoàn toàn với người đọc. Các ý kiến đưa ra cũng rất hạn chế và không có tính liên kết. 13% 35%38% 14% Mức độ hoàn thành yêu cầu của đề bài (Task Fulfilment) Band 5 Band 4 Band 3 Band 2 Biểu đồ 1. Task fulfilment 164 bài viết chiếm khoảng 73% được đánh giá là có Mức độ hoàn thành yêu cầu của đề bài ở mức 3 – 4 theo Khung tham chiếu và thường có các lỗi như không phát triển ý hoặc chưa đủ trong các ý kiến đưa ra bàn luận. Các bài viết có sự cố gắng giải quyết các vấn đề của đề bài nhưng không rõ ràng và nhiều bài viết không có kết luận. Thêm vào đó, việc lặp lại các ý tưởng là tương đối phổ biến. Chỉ có 30 bài viết chiếm khoảng 13% trong khung tham chiếu, và khi xem xét các bài viết này thì lỗi phổ biến là các ý kiến chính chưa được phát triển đầy đủ. Kết quả của nghiên cứu này cũng khá tương đồng với kết quả khảo sát bài viết trong một nghiên cứu gần đây được thực hiện bởi Nguyen Thi Ngoc Quynh (2018) [8], Nguyễn Thanh Tâm (2016) [9]. 3.2. Ngữ pháp (Grammar) Thống kê từ dữ liệu thu thập được cho thấy với sự đánh giá về Ngữ pháp thì phổ biến nhất là sự xuất hiện của các lỗi về Thì của động từ, sự hòa hợp giữa chủ ngữ và động từ, dùng các câu học thuộc, và sử dụng nhiều câu đơn. Biểu đồ 2 dưới đây cho thấy có sự cách biệt tương đối lớn giữa những bài viết được đánh giá ở mức 6 điểm và mức 5 điểm, và điểm khác nhau mấu chốt là ở việc sử dụng được các loại câu phức đúng ngữ cảnh, đúng Thì. Biểu đồ 2. Grammar Các bài viết được khảo sát đạt mức điểm 4 chiếm nhiều nhất và có sự cách biệt rất lớn với các mức điểm còn lại. Dữ liệu tổng hợp cho thấy, những bài viết này đều có chứa những cấu trúc đơn giản ở mức độ được chấp nhận và đôi khi có cố gắng sử dụng một vài câu phức nhưng chưa thành công. Các bài viết này cũng chứa các lỗi về Thì, giới từ nhưng không gây sự khó hiểu đối với người đọc. Ở mức 3 điểm, các bài viết có sự xuất hiện rất rõ rệt của việc chỉ sử dụng các câu đơn kèm theo đó là một vài câu được học thuộc sẵn không liên quan đến đề bài như “My name’s Thu and I am a student of class 02”. Theo Nguyễn Thanh tâm (2016), do sự đa dạng về cấu trúc và Thì trong tiếng Anh cũng Nguyễn Thị Hồng Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 42 - 47 Email: jst@tnu.edu.vn 45 như sự thiếu hụt trong kiến thức ngữ pháp cơ bản nên sinh viên thường tạo nên những câu sai ngữ pháp. Và, các lỗi về Thì và các hiện tượng khác đôi khi gây khó hiểu với người đọc, ví dụ như câu „Yesterday I have read a novel’ thì phải được viết là „Yesterday I read a novel‟. Kiến thức về cách sử dụng động từ To be không phải là một hiện tượng phức tạp của ngữ pháp tiếng Anh, tuy nhiên không phải do vậy mà sinh viên tránh được lỗi này. Việc thường xuyên không sử dụng đúng dạng của động từ To be sau chủ ngữ, hoặc thiếu động từ này khiến cho các bài viết bị đánh giá ở mức điểm không cao cho mảng ngữ pháp, ví dụ như ở câu „It’s make me feel‟ nên được viết là „It makes me feel‟, hay câu „They unhappy.‟ nên được viết là „They are unhappy.‟. Các bài viết được yêu cầu viết trong khoảng 50 từ, nhưng việc sử dụng các câu học thuộc không cần thiết khiến cho nội dung bài viết bị ảnh hưởng, ví dụ như „How are you? I am fine. I hope you are fine.‟ (11 từ); „I am very happy to receive your letter, and thanks for your letter. Your idea is very great.‟ (18 từ); hay „My name’s Thu and I am a student of class 02.‟ (11 từ), mặc dù, theo quan điểm của nhiều người, những câu này làm cho bài viết email mang sắc thái tự nhiên hơn. 3.3. Từ vựng (Vocabulary) 3% 20% 41% 26% 10% Từ vựng (Vocabulary) Band 7 Band 6 Band 5 Band 4 Band 3 Biểu đồ 3. Vocabulary Theo số liệu được cung cấp trong Biểu đồ 3, khoảng 26% các bài viết được đánh giá ở mức điểm 4 theo VSTEP, và ở những bài viết này sinh viên chỉ kiểm soát được việc sử dụng các từ đơn giản và đôi khi sự lựa chọn từ chưa chính xác. Với lượng từ vựng phong phú, và hệ thống chữ cái được sắp xếp khác với hệ thống chữ tiếng Việt, lựa chọn từ tiếng Anh cho bài viết thực sự gây trở ngại cho người học ngoại ngữ, ví dụ như ở câu „Each book has a deep massage .‟ cần được viết là „Each book has a deep message.‟ Hay câu „Extually, it has a happy ending.‟ Nên được viết là „Actually, it has a happy ending.‟. Số liệu khảo sát được cũng đưa ra một cái nhìn khả quan về việc sử dụng từ vựng của sinh viên Trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên khi có tới 41% số bài viết có thể được chấm ở mức 5 theo Khung tham chiếu với lượng từ vựng phong phú: decendent, anatomy, consider, science book, modern facilities, và bắt đầu có sự sử dụng của các cụm từ: figure out, a big fan of, get rid of, full of. Tuy nhiên ở những bài viết này, lỗi chính tả và sai từ loại vẫn rất phổ biến, ví dụ „many difficult‟ nên được viết là „many difficulties‟, „She is a wonderfur woman.‟ nên viết là „She is a wonderful woman.‟, hay „I am really in to books.‟ Nên là „I am really into books.‟. Thêm vào đó, các cụm từ đôi khi bị sử dụng lặp đi lặp lại. Kết quả khảo sát này cũng đưa ra quan điểm tương đồng với một vài nghiên cứu trước đây như của Hui-mien Tan (2006) [10] trên bài viết của 95 sinh viên. Một điều đáng chú ý ở đây là khoảng 3% các bài viết được đánh giá ở mức điểm 7 với lượng từ vựng phong phú, trải rộng từ danh từ, động từ, tính từ, đến trạng từ, liên từ. 3.4. Bố cục của bài viết (Organization) Theo Hội đồng Anh (British Council), chúng ta sẽ cảm thấy yêu thích hơn với những bài nói hoặc bài viết mà nội dung hay các ý tưởng trong các câu được liên kết với nhau một cách hợp lý, và do vậy việc sử dụng các liên từ là rất quan trọng và chúng sẽ mang lại cho các bài viết một phong cách ở mức cao hơn. 39% 61% Bố cục của bài viết (Organization) Band 4 Band 3 Biểu đồ 4. Organization Nguyễn Thị Hồng Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 42 - 47 Email: jst@tnu.edu.vn 46 Dữ liệu trong Biểu đồ 4 dưới đây cho thấy chỉ có khoảng 39% số bài viết đạt ở mức 4 theo Khung tham chiếu về tính lô gic cho các thông tin và sự liên kết giữa các câu trong bài viết. Các bài viết được khảo sát cho thấy các ý tưởng của bài viết đã có được sự liên kết bởi việc sử dụng của một số liên từ ở cấp độ đơn giản như and, but, so, because, tuy nhiên không có nhiều liên từ nào ở cấp độ cao hơn như moreover, however, therefore . Một vài cấu trúc liên kết câu có được dùng nhưng chưa chính xác, ví dụ như „They are not only good for my study but also they give me a lot of information.‟. Ở trong câu này, hai mệnh đề đều không có lỗi sai về ngữ pháp, và tác giả có cố gắng dùng phương tiện từ „not only – but also‟ để liên kết câu và ý nhưng cách dùng lại sai khiến cho nghĩa của câu chưa thoát ý, và ý của mệnh đề phía trước với ý của mệnh đề sau gần như bị trùng lặp. Đây là một ví dụ điển hình cho lỗi về lập luận có liên kết nhưng không chính xác và mạch lạc về phát triển ý. Câu này có thể sửa như sau „They are not only interesting but also educational.‟. Ngoài ra, gần như ở tất cả các bài viết, thông tin đều không được sắp xếp theo các đoạn văn mà tất cả được đưa về chung một đoạn lớn dù nội dung có khác biệt, ví dụ: „Reading books is one of the interesting ways that I can get rid stress. Since I was a little girl, I have always been keen on science book which is full of knowledge. I am reading animals book. The more I read, the more I understand developing of them. Do you like animals?....‟ Ở bài viết này, tạm bỏ qua vấn đề về các lỗi chính tả hay cách chọn từ, thì nhìn qua đoạn văn có vẻ rất tốt về ngữ pháp với „have been; am reading‟, tuy nhiên, tác giả bài viết đang nói về science book lại chuyển sang animal book rồi lại hỏi về animal. Sẽ tốt hơn nếu các ý tưởng được phát triển đầy đủ với các thông tin hỗ trợ và phân đoạn nhằm giúp cho người đọc theo dõi và hiểu dễ dàng ý của tác giả hơn. Khoảng 61% các bài viết được đánh giá ở mức điểm 3 cho thấy một thực trạng không tích cực trong việc sắp xếp và đảm bảo tính bố cục của bài viết. Ở những bài viết này, chỉ có một hoặc hai liên từ như „because; although; but‟ hay đôi khi gặp một câu phức như „I am very surprise when you are reading a novel.‟; tuy nhiên, nghĩa của câu này lại trúc trắc gây khó hiểu. Nhiều bài viết chỉ chứa đựng các câu đơn, ví dụ như „How are you? I hope fine. I am reading a book. It is love story. Can you know book’s name? Uhm, it is Romeo and Juliet. It is very interesting‟. 4. Kết luận Dựa trên sự phân tích dữ liệu thu thập được, nghiên cứu này đã chỉ ra các lỗi mà sinh viên trường Đại học Y Dược - Đại học Thái Nguyên mắc phải đều trải đều trên cả bốn tiêu chí đánh giá theo Khung 6 bậc về năng lực sử dụng ngoại ngữ dành cho Việt Nam. Nguyên nhân đầu tiên có thể kể đến đó là sự ảnh hưởng từ tiếng mẹ đẻ, tiếng Việt. Việc sử dụng tiếng Việt một cách trôi chảy và hiệu quả trong đời sống hằng ngày đã khiến cho sinh viên áp dụng cách dùng từ, ngữ pháp, và liên kết câu tương tự như khi họ giao tiếp bằng tiếng Việt. Trong tiếng Việt, các động từ không thay đổi hình thức từ cho dù thời gian hay chủ ngữ của hành động có thay đổi. Thêm vào đó, sự giao tiếp hàng ngày vẫn có thể được thực hiện một cách rất hiệu quả với các câu đơn và không cần có sự sử dụng của nhiều liên từ. Nguyên nhân thứ hai được đưa ra đó là sự hạn chế về nền tảng của kiến thức ngôn ngữ Anh, từ Ngữ pháp đến các Từ loại. Việc không thường xuyên đọc các văn bản bằng tiếng Anh đã ảnh hưởng không tích cực tới sự suy nghĩ và sáng tạo trong khi viết và cả trong khi nói bằng tiếng Anh. Nguyên nhân sau cùng được đề cập đến đó là việc học kỹ năng Viết của sinh viên chưa được thực hiện đúng quy trình và sự luyện tập chưa được coi trọng đúng mức. Chuyên gia tư vấn tài chính cấp cao Võ Tá Hân, cựu Chủ tịch Hội doanh nhân Canada ở Singapore, chia sẻ kinh nghiệm trên Tạp chí Vnexpress về một phương pháp có thể giúp Nguyễn Thị Hồng Nhung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 209(16): 42 - 47 Email: jst@tnu.edu.vn 47 cải thiện kỹ năng viết là “Mỗi ngày dành ít nhất 15 phút, ngồi viết một mạch bằng tiếng Anh tất cả những gì bạn nghĩ, xong rồi xé bỏ trang giấy ấy đi". Đây cũng là một gợi ý thú vị cho người học tiếng Anh trong quá trình học và rèn luyện kỹ năng Viết. Hội đồng Anh (British Council) cũng từng đưa ra gợi ý rằng, ngoài sự cần thiết được trang bị về ngữ pháp và từ vựng, người học cần tập suy nghĩ về vấn đề sau đó học cách sắp xếp các ý tưởng đó một cách hợp lý trước khi bắt đầu viết. Thêm vào đó, nếu người học có thể tạo thành một thói quen viết nhật ký bằng tiếng Anh hay viết các đoạn văn ngắn hay thư điện tử tới bạn hoặc Thầy/ Cô của mình thì kỹ năng Viết sẽ được cải thiện nhanh hơn và theo chiều hướng tự nhiên hơn. Trong quá trình học và rèn luyện kỹ năng Viết, người học không thể tránh được việc mắc lỗi, và lỗi thường được coi như một dấu hiệu không tích cực của việc học; tuy nhiên, quan điểm và cách nhìn nhận về sự xuất hiện của các lỗi trong các bài viết nên được thay đổi, và việc sửa lỗi có thể trở thành một phần cần thiết, hữu ích trong tiến trình rèn luyện kỹ năng Viết. TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES [1]. S. Lewis, “British Council in Madrid, Spain”. [Online]. Available: https://www.teaching english.org.uk/article/teens-writing-skills. [Accessed November 12, 2019]. [2]. H. Ringbom, The role of first language in foreign language learning, U.S.A.: Multilingual Matters, Ltd., 1987. [3]. C. Sorace, “Computer pen pals: Wri
File đính kèm:
- cac_loi_thuong_gap_trong_bai_viet_so_2_bai_thi_cuoi_ky_tieng.pdf