Các kỷ nguyên phương pháp trong giảng dạy ngoại ngữ hay là sự vận động biện chứng của phương pháp trong lịch sử giảng dạy ngoại ngữ
Trong lý thuyết xây dựng chương trình, các nhà nghiên cứu đề cập đến ít nhất 05 đơn vị
thành tố hình thành hệ thống chương trình: (1) Nghiên cứu nhu cầu (cá nhân và xã hội), (2)
Xác lập mục đích và mục tiêu (3) Lựa chọn và sắp xếp nội dung giảng dạy và học tập (4) Tìm
kiếm phương pháp thực hiện (mục đích, mục tiêu và nội dung chương trình), (5) Kiểm tra,
đánh giá (việc thực hiện mục đích, mục tiêu và nội dung chương trình). Các kiểu quan hệ khác
nhau giữa các thành tố nêu trên của hệ thống chương trình sẽ giúp hình thành các kiểu loại
chương trình khác nhau, đơn giản có thể kể đến các kiểu loại phổ biến như: (1) chương trình
tuyến tính (hay còn gọi là chương trình mục tiêu duy lý trí, trong đó các yếu tố nói trước (từ 1 -5) quy định các yếu tố nói sau), chương trình vòng tròn (trong đó các yếu tố của hệ thống
chương trình tương tác và điều chỉnh lẫn nhau trong quan hệ vòng tròn (từ 1-5), và yếu tố
đứng sau có thể giúp điều chỉnh yếu tố đứng trước), và (3) chương trình năng động (trong đó
các nội dung và phương pháp giảng dạy được người dạy và người học “đàm phán” với nhau
theo quan điểm lấy người học làm trung tâm). Như vậy phương pháp dạy học là một khâu của
hệ thống chương trình, nhưng hoạt động như thế nào trong hệ thống lớn chương trình là một
vấn đề đáng quan tâm.
một nửa thuộc hoạt động hiện thức hoá định hướng và thiết kế (theo kế hoạch) và một nửa thuộc hoạt động của sinh viên với vai trò hiện thức hoá các vai diễn trong các trường, thức, không khí giao tiếp được lựa chọn trong thiết ngân hàng. Xét từ góc độ thiết kế chương trình, các khái niệm nội dung và phương pháp đương nhiên không tồn tại độc lập mà tương tác lẫn nhau. Vấn đề cần rút ra là nên chăng hay không nên tuyệt đối hoá các khái niệm nội dung và phương pháp??? Điều này có nghĩa là khi đổi mới phương pháp, yếu tố nội dung là yếu tố không thể bị loại trừ. Phương pháp, như cách hiểu của Richards (1991, 2001) là nỗ lực tạo cơ hội cho người học thụ đắc ngôn ngữ. Các quan điểm của Richards có thể coi là một “cuộc cách mạng” so với các quan điểm về phương pháp của các nhà tiền bối từ đầu đến giữa thế kỷ XX, những người coi “phương pháp” là sự thỏa thuận nhất trí giữa nhà lý luận và người đứng lớp, nhằm tiến tới việc kiểm soát từ vựng và cấu trúc của ngôn ngữ, những người như Faucette, Palmer, Thorndike (1936), West (1953) - những người bảo hộ về lý luận cho loại chương trình cấu trúc. Quan niệm của Palmer khác quan niệm của các nhà Ngữ pháp - Phiên dịch truyền thống ở chỗ ông lưu ý đến các hệ thống làm nền cho mẫu lời nói, và trên cơ sở đó, Palmer & Brandford (1939) cho ra đời cuốn “Ngữ pháp lời nói” (Grammar of Speech) - cuốn sách tạo cảm hứng cho Hornby (1950) và đồng nghiệp để cho ra đời chương trình ngữ pháp (grammatical syllabus). 4. Kỷ nguyên trên phương pháp Richards (1984) lập luận rằng phương pháp có một cuộc sống bí mật (secret life) ở chỗ phương pháp có một cuộc sống “bên trên lớp học” (beyond the classroom): sự ra đời và sụp đổ của phương pháp phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài phương pháp, như mốt của người khởi xướng hay người tìm kiếm lợi nhuận từ phương pháp (profit seekers) và áp lực của thị trường tri thức tại chỗ... Vì thế ngoài các quy định về thực hiện vốn sẵn có trong phương pháp, phương pháp cần đáp ứng tiêu chí giải trình (accountability) (nghĩa là: đánh giá, evaluation). Đánh giá từ trước nay vẫn được coi là một khâu trong phát triển chương trình, nay lại được coi là yếu tố còn thiếu trong phát triển phương pháp. Sự lựa chọn phương pháp không đơn thuần là sự lựa chọn trên cơ sở các yếu tố phương pháp thuần túy mà trên cơ sở của phát triển chương trình, theo Richards (1984) gồm: Phân tích tình hình: trong đó quyết định các tham số về phát triển ngôn ngữ Phân tích nhu cầu, trong đó nhu cầu của người học được đánh giá Phân tích nhiệm vụ, trong đó nhiệm vụ ngôn ngữ của người học được quy định theo đòi hỏi ngôn ngữ hay giao tiếp của nhiệm vụ. Đặt mục đích trong đó quy định các mục tiêu ngôn ngữ theo yêu cầu, trên cơ sở trình độ đầu vào, nhu cầu giao tiếp của người học và các hạn chế của chương trình. Chọn kinh nghiệm học tập, trong đó quy định các tiến trình nhằm đạt được mục tiêu. Đánh giá, trên cơ sở sơ kết hay tổng kết, theo định hướng kết quả hay định hướng quá trình. Một cách tiếp cận phát triển phương pháp như vậy rõ ràng đặt trên cơ sở phát triển chương trình, và vấn đề quan trọng ở đây không còn là lựa chọn phương pháp nào mà là phát 7 triển, triển khai các hoạt động dạy học như thế nào để đạt mục tiêu của chương trình. Nói cách khác, vấn đề không còn là chọn phương pháp (methods) mà là phát triển phương pháp luận (methodology) nhằm đạt tính hiệu quả. Sự chuyển hướng chú ý từ phương pháp theo mục đích tự thân sang phương pháp nhằm đạt tính hiệu quả được gọi là “trên phương pháp” (beyond method). Sự ra đời của giai đoạn “trên phương pháp” trong phát triển phương pháp, theo Pennycook (1989), thực ra là kết quả truyền thống của sự phủ nhận lẫn nhau trong giai đoạn phương pháp: sự ra đời cả phương pháp mới được xây dựng trên cơ sở phủ nhận hoàn toàn phương pháp cũ. Một số nhà nghiên cứu thích phát biểu một cách hình tượng: phương pháp mới là sản phẩm của “sự nổi loại” lật đổ phương pháp cũ. Giai đoạn trên phương pháp được hiện thức hóa dưới hai hình thức cơ bản: giảng dạy tác động (effective teaching) và giảng dạy phản ánh (reflective teaching). Giảng dạy tác động là giảng dạy dựa trên cơ sở cho rằng nhà ngôn ngữ học ứng dụng cần đề ra lý thuyết và người dạy là người thực hiện các lý thuyết đó. Nói cách khác, giảng dạy tác động là giảng dạy trên cơ sở áp dụng các lý thuyết của nhà ngôn ngữ học ứng dụng vào thực tiễn. Giảng dạy phản ánh là giảng dạy trên cơ sở cho rằng việc tìm tòi lý thuyết nằm trên vai người dạy, và người dạy đóng vai trò kép, vừa là người thực hiện vừa là người nghiên cứu (Widdowson, 1990, Freeman, 1991). Widdowson (1990) cho rằng giảng dạy là hoạt động tự nghiên cứu của ngườI dạy, trên cơ sở đó, tìm ra các bằng chứng hoạt động mang tính hiệu quả. Và chỉ có ngườI dạy mớI có khả năng “suy ngẫm” về mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn. 5. Kỷ nguyên hậu phương pháp Sự tự quyết của người dạy chính là cơ sở bàn đạp cho sự ra đời của kỷ nguyên hậu phương pháp (post method era). Kỷ nguyên hậu phương pháp là giai đoạn không dựa trên một thuyết lý cứng nhắc về phương pháp mà là trên cơ sở các ý kiến có đánh giá phê phán dưới ánh sáng mới của đòi hỏi và thực tiễn giảng dạy tiếng. Điều kiện của giai đoạn hậu phương pháp là một tập hợp các giải pháp mở, mang tính miêu tả thực tiễn, luôn được điều chỉnh, mở rộng, làm phong phú bởi người dạy. Vai trò của người dạy trở nên nổi bật, tập trung vào các chiến lược, theo Salmani-Nodoushan (2006): Tối đa hóa cơ hội học tập; Thúc đẩy tương tác thương lượng; Tối thiểu hóa sự mất cân đối nhận thức; Tích cực hóa bản năng nhiệt tình; Rèn luyện ý thức ngôn ngữ; Bối cảnh hóa đầu vào ngôn ngữ; Kết hợp kỹ năng ngôn ngữ; Đẩy mạnh quyền tự chủ của người học; Nâng cao ý thức văn hóa; Đảm bảo tính tương thích xã hội. Hoạt động dạy học trong giai đoạn hậu phương pháp là một hệ thống ba mặt, gồm các tham tố (1) tính đặc thù (particularity), (2) tính thực tiễn (practicality), (3) tính khả năng (possibility). Tham tố tính đặc thù giúp đẩy mạnh giảng dạy phù hợp với bối cảnh thực hiện gồm các đặc thù về ngôn ngữ, văn hóa- xã hội, chính trị, tham tố về tính thực tiễn giúp xóa đi quan hệ cố hữu giữa nhà lý thuyết và nhà thực hành qua việc cho phép người dạy tự thiết kế lý thuyết thực hiện cho riêng mình; tham tố tính khả năng cho phép người dạy, người học, nhà đào tạo sư phạm có ý thức về mặt xã hội-chính trị để tìm hình ảnh của mình trong công cuộc cải biến xã hội. 6. Kết luận Trong bài viết này, chúng tôi đã trình bày các kỷ nguyên vận động trong “cuộc đời hoạt động” của phương pháp, từ kỷ nguyên tiền phương pháp, sang kỷ nguyên phương pháp, kỷ nguyên trên phương pháp và kỷ nguyên hậu phương pháp. Từ các nội dung đã trình bày, có thể rút ra một số kết luận sau đây 1. Phương pháp không phải là một phạm trù cố định, đứng yên trong lịch sử dạy tiếng. Với tư cách là một yếu tố trong chương trình, phương pháp có tác động qua lại với các yếu tố khác như nội dung chương trình, mục tiêu chương trình, kiểm tra đánh giá. Do quan hệ biện chứng này của phương pháp, công việc cải tiến phương pháp giảng dạy hiện nay mà 8 chúng ta đang theo đuổi đòi hỏi một nỗ lực mang tính hệ thống. Việc cải tiến phương pháp dạy tiếng phải tiến hành trong mối quan hệ với việc cải tiến nội dung chương trình. Phương pháp không phải là yếu tố đứng ngoài nội dung trong giảng dạy. 2. Kỷ nguyên trên phương pháp là kỷ nguyên chú ý đến tính hiệu quả trong giảng dạy. Giảng dạy tác động và giảng dạy phản ánh là hai hướng mở nhằm tạo ra hiệu quả giảng dạy 3. Kỷ nguyên hậu phương pháp là kỷ nguyên lưu ý đến các đặc điểm đa dạng của người học. Thực ra mục đích của việc chú ý đến nhu cầu đặc điểm của người học về cơ bản không nằm ngoài mục tiêu tính hiệu quả cho quá trình giảng dạy. Qua các kỷ nguyên vận động của phương pháp, có thể thấy hướng vận động chung của phương pháp là tiến về phía chủ động hóa vai trò của người dạy và người học, tích cực hóa các khả năng sẵn có trong một môi trường cụ thể nhằm đạt được mục tiêu và hiệu quả của quá trình dạy học. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Faucette, J, West, M. Palmer, H.E. & Thorndike (1936), The interim Report on Vocabulary Selection for the Teaching of English as a Foreign Language, London P.S King. [2] Hornby, A. S (1950), The Situational Approach in Language Teaching, A series of 3 articles, in English Language Teaching 4, 98-104, 121-28, 150-6. [3] Hymes, D (1970) On Communicative Competence Pride J.B. & Holmes J. (eds.) Sociolinguistics, Penguin. [4] Mackey, W. F (1950), The Meaning of Method, English Language Teaching 5, 4-10. [5] Larsen -Freeman, D (1980), Discourse Analysis in Second Language Research, Newbury House, Rowley Massachussett. [6] Palmer, H.E & Bramdford, F.G (1939), A grammar of Spoken English on Strictly Phonetic Basis, Cambridge: Heffer. [7] Pennycook, A. (1989), The Concept of Method, Interested Knowledge and the Politics of Language Teaching,, TESOL Quarterly, 23(4), 589-618. [8] Richards, J. C (1984), The Secret Life of Methods, TESOL Quarterly, 18(1)7-21. [9] Richards, J.C. (1989), Beyond Methods Alternative Approaches to Instructional Design, Prospect 3(1), 11-30. [10] Richards, J.C (1990), The Language Teaching Matrix, CUP. [11] Richards J.C. ((ed), The Context of Language Teaching, CUP. [12] Salmani Nodoushan, M.A. (2006), Language Teaching: State of the Art, EFL Journal Quarterly, March 2006, V8. [13] Searl, J. R (1965), What is a Speech Act? In Black, M. (ed.) Philosophy in America, 221-239, New York: Cornell University Press. [14] Searl, J. R. ( (1969), Speech Acts, CUP. [15] Searl J. R. (1976), The Classification of Illucutionary Acts, in Searl J. R (ed.) Expression and Meaning. [16] Tyler, R.W (1949), Basic principles of Curriculum and Instruction, Chicago, University of Chicago Press. [17] Widdowson, H. G. (1990), Aspects of Language Teaching, Oxford: OUP.
File đính kèm:
- 24-23-thom-ng-20xuan-pdf-2055.pdf