Biện pháp khắc phục khó khăn trong giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành kế toán tại khoa kinh tế - Đại học mở Hà Nội

Tiếng Anh chuyên ngành kế toán là một môn học quan trọng đối với sinh viên

chuyên ngành kế toán ở khoa Kinh tế - Đại học Mở Hà Nội. Môn học cung cấp cho sinh viên

những thuật ngữ chuyên ngành, củng cố kiến thức chuyên ngành bằng tiếng Anh để phục vụ

cho thực tế công việc chuyên môn sau này. Là một giảng viên đã và đang giảng dạy môn tiếng

Anh chuyên ngành kế toán, tác giả nhận thấy còn rất nhiều khó khăn trong quá trình giảng

dạy dẫn đến kết quả dạy và học chưa được như mong muốn. Trên cơ sở tìm hiểu những khó

khăn còn tồn tại, tác giả đề xuất một số biện pháp khắc phục những khó khăn đó nhằm nâng

cao hiệu quả giảng dạy môn tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên ngành kế toán tại khoa

Kinh tế - Đại học Mở Hà Nội

pdf14 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 732 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biện pháp khắc phục khó khăn trong giảng dạy tiếng Anh chuyên ngành kế toán tại khoa kinh tế - Đại học mở Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN TRONG GIẢNG DẠY 
TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH KẾ TOÁN TẠI KHOA 
KINH TẾ - ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI 
SOLUTIONS TO OVERCOME DIFFICULTIES IN TEACHING 
ENGLISH FOR ACCOUNTING AT FACULTY OF ECONOMICS, HANOI 
OPEN UNIVERSITY
Phạm Mai Lan*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/12/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/6/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/6/2020
Tóm tắt: Tiếng Anh chuyên ngành kế toán là một môn học quan trọng đối với sinh viên 
chuyên ngành kế toán ở khoa Kinh tế - Đại học Mở Hà Nội. Môn học cung cấp cho sinh viên 
những thuật ngữ chuyên ngành, củng cố kiến thức chuyên ngành bằng tiếng Anh để phục vụ 
cho thực tế công việc chuyên môn sau này. Là một giảng viên đã và đang giảng dạy môn tiếng 
Anh chuyên ngành kế toán, tác giả nhận thấy còn rất nhiều khó khăn trong quá trình giảng 
dạy dẫn đến kết quả dạy và học chưa được như mong muốn. Trên cơ sở tìm hiểu những khó 
khăn còn tồn tại, tác giả đề xuất một số biện pháp khắc phục những khó khăn đó nhằm nâng 
cao hiệu quả giảng dạy môn tiếng Anh chuyên ngành cho sinh viên ngành kế toán tại khoa 
Kinh tế - Đại học Mở Hà Nội. 
Từ khóa: tiếng Anh chuyên ngành (TACN), kế toán, thuật ngữ, đọc hiểu, khó khăn 
Abstract: English for acocunting is an important subject for students of accounting 
at Faculty of Economics, Hanoi Open University. The subject aims to provide the students 
with accounting terminologies, enhance student’s accounting knowledge in English for 
their future career. As a lecturer of English for Accounting, the author has found out a lot 
of diffi culties in teaching English for accounting. As the result, the teaching and learning 
are not as successful as desired. Based on the existing diffi culties, some possible solutions 
to overcome those diffi culties are suggested with the hope to improve the eff ectiveness of 
English for accounting teaching to Accounting students at Faculty of Economics, Hanoi 
Open University. 
Keywords: English for Specifi c Purposes (ESP), accounting, terminologies, reading 
comprehension, diffi culties
* Trường Đại học Mở Hà Nội
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 68 (6/2020) 1-14
2 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1. Đặt vấn đề
Tại khoa Kinh tế - Đại học Mở Hà 
Nội, tiếng Anh chuyên ngành kế toán là 
một môn học đóng vai trò quan trọng 
nhằm cung cấp cho sinh viên ngành kế 
toán những thuật ngữ chuyên ngành bằng 
tiếng Anh và giúp sinh viên củng cố, tăng 
cường kiến thức chuyên môn thông qua 
các bài học có nội dung liên quan đến 
chuyên ngành bằng Tiếng Anh. Dựa trên 
đặc trưng của nghề nghiệp tương lai, khoa 
đã xây dựng mục tiêu phù hợp cho môn 
học Tiếng Anh chuyên ngành kế toán và 
lựa chọn giáo trình “How to pass book-
keeping (First level)” để sử dụng cho việc 
giảng dạy môn học. Giáo trình chủ yếu 
tập trung vào kĩ năng đọc hiểu (lí thuyết) 
và viết (bài tập thực hành). Giáo trình 
được sử dụng để dạy cho sinh viên năm 
thứ ba chuyên ngành kế toán, sau khi đã 
hoàn thành ba học phần Tiếng Anh cơ bản 
1, 2, 3 theo chương trình chung của toàn 
trường.
Mặc dù môn tiếng Anh chuyên 
ngành (TACN) đã được dạy ở khoa Kinh 
tế khá lâu và đội ngũ giáo viên ổn định 
nhưng trong quá trình giảng dạy đối với 
mỗi khóa sinh viên khác nhau giảng viên 
đều gặp phải những khó khăn nhất định. 
Những khó khăn đó có thể xuất phát từ 
phía giảng viên (GV) hoặc có thể xuất 
phát từ phía sinh viên (SV) mà giảng viên 
không lường trước được. Về phía giảng 
viên, các giảng viên dạy TACN đều là 
giáo viên được đào tạo về chuyên ngành 
Tiếng Anh chứ không được đào tạo chính 
thức về chuyên ngành kế toán nên kiến 
thức chuyên ngành kế toán của giáo viên 
chủ yếu thông qua hình thức tự nghiên 
cứu, học hỏi từ các giảng viên dạy chuyên 
ngành kế toán trong khoa. Về phía sinh 
viên, mỗi khóa sinh viên đều có đặc điểm 
trình độ, ý thức học tập khác nhau nên 
việc tiếp thu kiến thức môn học cũng hoàn 
toàn khác nhau. Từ thực tế giảng dạy và 
kết quả học tập cho thấy giảng viên cần 
phải có biện pháp khắc phục những yếu 
điểm này để giúp cho việc giảng dạy và 
học tập của môn học được hiệu quả hơn. 
Là một giảng viên dạy môn TACN kế toán 
nên tác giả đã nghiên cứu những khó khăn 
trong quá trình giảng dạy môn học TACN 
kế toán và đề xuất một số biện pháp khắc 
phục những khó khăn đó với hi vọng sẽ 
đem lại hiệu quả cao hơn cho việc giảng 
dạy cho sinh viên các khóa sau.
2. Lý luận về giảng dạy Tiếng Anh 
chuyên ngành
2.1. Khái niệm và phân loại TACN
Thuật ngữ Tiếng Anh chuyên ngành 
(TACN) được các tác giả định nghĩa 
theo các cách khác nhau. Các tác giả 
Hutchinson và Water đã định nghĩa TACN 
là “một hướng giảng dạy ngôn ngữ trong 
đó tất cả các quyết định về nội dung và 
phương pháp giảng dạy đều dựa trên cơ 
sở nhu cầu của người học” (1987:19). 
Tác giả Widdowson lại đặt các mục tiêu 
đặc biệt của việc thiết kế khóa học TACN 
trong mối quan hệ mật thiết với việc đào 
tạo “TACN là việc giải phẫu đào tạo thiết 
yếu nhằm cung cấp cho người học một 
năng lực hạn chế nhằm tạo khả năng cho 
họ có thể đối mặt với các nhiệm vụ được 
định nghĩa một cách rõ ràng nhất định. 
Những nhiệm vụ này cấu thành các mục 
đích đặc biệt mà khóa học TACN được 
thiết kế nhằm đạt được” (1983:6). 
Trong sơ đồ về việc giảng dạy 
ngôn ngữ Tiếng Anh, tác giả Hutchinson 
(1987:16) đã chia TACN thành 3 phạm trù 
3Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
dựa trên bản chất chung của đặc điểm của 
người học. TA chuyên ngành Công nghệ & 
Khoa học (EST), TA chuyên ngành Kinh 
tế và Thương mại (EBE) và TA chuyên 
ngành Khoa học xã hội (ESS). Mỗi phạm 
trù TACN gồm hai loại TACN khác nhau 
dựa trên yêu cầu của người học là TA 
học thuật (EAP: English for Academic 
purposes) hay TA cho việc làm/ đào tạo 
(EOP/EVP/VESL). Theo quan điểm của 
tác giả Robinson (1991:2) và Munby 
(1978:55), có một sự phân biệt chủ yếu 
giữa TA nghề nghiệp/ đào tạo [English 
for Occupational Purposes (EOP)] với sự 
liên quan đến nhu cầu công việc và TA 
học thuật [English for Academic Purposes 
(EAP)] liên quan đến nhu cầu nghiên cứu 
học thuật. 
Các quan điểm nêu trên cho thấy 
hiển nhiên là TACN kế toán nằm trong 
phạm trù TA chuyên ngành Kinh tế và nó 
cũng là một loại TA học thuật. Nội dung 
môn học được thiết kế dựa trên mục tiêu 
đào tạo, đặc điểm và nhu cầu của sinh viên 
ngành kế toán.
2.2. Vai trò của giáo viên TACN
Rất nhiều nghiên cứu về vai trò 
của giáo viên TACN đã được thực hiện. 
Một điểm quan trong cần phải xem xét là 
không có vai trò nào là lý tưởng và đơn 
lẻ. Một giáo viên TACN phải lĩnh hội đủ 
các vai trò của cả giáo viên Tiếng Anh cơ 
bản (TACB) và TACN. Trong quá trình 
học, giáo viên phải giúp học viên đạt được 
mục đích học một cách có hiệu quả. Đặc 
biệt, trong lớp học, hầu hết mọi bài học 
trong sách không được hiểu một cách 
đầy đủ nếu như không có sự trợ giúp của 
giáo viên. Giáo viên (GV) là nhân tố quan 
trọng nhất trong lớp học vì thái độ của 
GV sẽ ảnh hưởng đến học viên và sự thể 
hiện của học viên. GV phải tạo bầu không 
khi hoàn toàn không bị run sợ để họ cảm 
thấy tự do trải nghiệm phong cách học đọc 
mới. GV cũng phải tạo môi trường thuận 
lợi để học viên có thể luyện tập để lĩnh 
hội được các chiến lược mới. Đồng thời, 
GV thường phải tạo ra áp lực về thời gian 
cho học viên. Học giả Little wood đã phát 
biểu rằng GV TACN được hy vọng “thể 
hiện các vai trò khác nhau một cách riêng 
biệt hoặc đồng thời” (1981:51). Học giả 
Nunan (1988) phát biểu rằng vai trò của 
GV TACN vừa là người hướng dẫn, người 
quản lý, người tư vấn, người trang bị kiến 
thức, người tổ chức, người đánh giá, người 
phát triển khung chương trình, người viết 
tài liệu và thậm chí là một người bạn. Các 
học giả Hutchinson và Waters lại cho rằng 
“GV TACN sẽ phải thực hiện các nhiệm 
vụ như phân tích nhu cầu, thiết kế nội 
dung giảng dạy, viết hoặc thực hiện theo 
tài liệu giảng dạy và đánh giá” (1987:157); 
trong khi đó học giả Martin (1992) liệt kê 
và giải thích các vai trò khác nhau của 
GV. Ông xem vai trò dựa trên quá trình 
thực hiện nhiệm vụ trong bài học TACN: 
trước, trong và sau khi thực hiện nhiệm 
vụ. Theo quan điểm của Martin, một GV 
muốn hỗ trợ quá trình học thông qua các 
pha khác nhau của một nhiệm vụ sẽ cần 
phải có khả năng đóng các vai khác nhau 
như vừa là một nhà thám hiểm, người tổ 
chức, người định hướng & hướng dẫn và 
người tư vấn. Tác giả Robinson (1991) 
trong sách “ESP today: A practitioner’s 
guide” (TACN ngày nay: Hướng dẫn cho 
người thực hiện) của mình đã đúc kết các 
quan điểm của các tác giả về vai trò của 
GV TACN như sau: “GV TACN không 
chỉ giảng dạy mà còn thường xuyên phải 
4 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thực hiện các nhiệm vụ thiết kế, xây dựng, 
quản lý, kiểm tra và đánh giá trong khóa 
học TACN”. 
Dù ở vai trò nào đi nữa thì “một GV 
TACN phải có chút kiến thức về lĩnh vực 
mà mình sẽ giảng dạy” (Hutchinson and 
Waters, 1987:161) và “sự thích ứng” và 
“linh hoạt” là yêu cầu trước hết đối với 
GV TACN [Hutchinson và Waters (1987)] 
vì trên thực tế, vai trò của GV TACN sẽ 
đa dạng tùy theo loại đề cương môn học, 
khóa học, môi trường dạy học và đối 
tượng học.... 
2.3. Một số vấn đề Giáo viên dạy 
Tiếng Anh chuyên ngành thường gặp
Qua các vai trò của GV TACN trình 
bày phần trên, nhiều khó khăn và thử thách 
đối với GV TACN xuất hiện. Các học giả 
nêu ra 4 nguyên nhân gây ra vấn đề tại sao 
nhiều GV TACN thấy khó hiểu lĩnh vực 
chuyên ngành mình sẽ dạy: (1) GV TACN 
thường được đào tạo rất ít hoặc không 
được đào tạo về lĩnh vực khoa học mình sẽ 
giảng dạy. Về truyền thống thì ngôn ngữ 
được phân bổ theo phạm vi nhân văn nên 
GV ngôn ngữ không được đào tạo về các 
lĩnh vực khoa học một cách chuyên sâu; 
“vì thế họ cần phải định hướng chính mình 
và môi trường mới mà thông thường họ ít 
được chuẩn bị” (Hutchinson, 1987: 157). 
(2) Nhiều GV TACN miễn cưỡng học lĩnh 
vực mới - TACN. (3) Theo thang tiến hóa 
TACN thì rất ít nỗ lực được thực hiện để 
đào tạo hoặc đào tạo lại GV. (4) Thái độ 
chung trong TACN dường như mong đợi 
GV phải đáp ứng được các yêu cầu về tình 
huống đích. GV TACN có thể cũng phải 
đấu tranh để lĩnh hội ngôn ngữ và kiến 
thức khoa học chuyên môn cùng với kinh 
nghiệm họ đã có từ trước bởi vì phần lớn 
trong số họ đều chỉ được đào tạo trở thành 
GV TA cơ bản và không nghĩ là họ sẽ bị 
yêu cầu phải dạy các bài mà họ có kiến 
thức ít hoặc không có kiến thức. Trường 
hợp này đúng với hoàn cảnh của các GV 
TACN ở khoa Kinh tế. Họ đều được đào 
tạo trở thành GV TA cơ bản. Lúc đầu các 
GV cũng phải đối đầu với khá nhiều khó 
khăn vì hổng kiến thức khoa học chuyên 
môn và phương pháp giảng dạy phù hợp. 
Thực ra, GV không dễ dàng và phải mất 
thời gian làm quen với ngôn ngữ khoa học 
mình sẽ dạy. Vì thế, sự thành công đối 
với các GV là làm thế nào phải linh hoạt 
đáp ứng được các yêu cầu về tình huống 
giảng dạy mới. Hiển nhiên là để đạt được 
mục đích đề ra thì GV không được phép 
bỏ cuộc, mà họ cần phải đương đầu với 
những thử thách này.
2.4. Vị trí của các kỹ năng trong 
giảng dạy TACN
Trong việc dạy và học ngôn ngữ thì 
có 4 kỹ năng cơ bản là Nghe, nói, đọc và 
viết. Trong TACN, đọc hiểu là một kỹ năng 
ngôn ngữ thiết yếu với bất kỳ người học 
ngôn ngữ nào không chỉ về tính học thuật 
của nó mà còn về nghề nghiệp tương lai. 
Mục tiêu của bất kỳ chương trình đọc hiểu 
nào đều nhằm “tạo khả năng cho người học 
đọc được với tốc độ phù hợp và hiểu được 
mà không cần có sự trợ giúp của bất kỳ ngữ 
cảnh cụ thể nào” (Nuttal, C, 1982:21). Vì 
thế kỹ năng đọc hiểu đóng vai trò trung tâm 
trong TACN. Với loại khóa học đọc có tính 
chất thế này thì TA không chỉ được dạy với 
mục đích cải thiện kỹ năng đọc hiểu của 
học viên mà còn làm cho họ quen với từ 
vựng và thuật ngữ TA đặc trưng sử dụng 
trong các lĩnh vực. Nói cách khác, sau khóa 
học TACN, học viên được kỳ vọng có khả 
năng dịch các văn bản chuyên môn của họ 
5Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
để có thêm thông tin cho việc nghiên cứu 
sâu hơn và cho nghề nghiệp trong tương lai 
theo cách phù hợp nhất. 
Đối với TACN kế toán cũng vậy. 
Mục tiêu chính là giúp sinh viên làm quen 
với các thuật ngữ kế toán và các giao dịch 
kế toán, đó là những cái mà họ sẽ phải 
gặp trong công việc sau này. Là kế toán 
thì họ sẽ phải giải quyết các chững từ kế 
toán bằng văn bản nhiều hơn so với các 
kỹ năng khác. Do vậy, kỹ năng đọc hiểu 
đóng vai trò quan trọng hơn các kỹ năng 
khác. Khi mục đích đọc hiểu đã đạt được 
thì sinh viên có sẽ năng lực trong việc đọc 
TACN kế toán, họ có thể mở rộng những 
khái niệm kế toán và xem như đó là cơ sở 
để họ tiếp tục nâng cao kiến thức về lĩnh 
vực kế toán. Bên cạnh đó kỹ năng viết góp 
phần quan trọng không kém trong việc 
giúp sinh viên biết cách thực hiện các giao 
dịch kế toán, ghi chép sổ sách và lập các 
báo cáo bằng văn bản. 
Có thể kết luận rằng kỹ năng đọc 
hiểu và viết đóng vai trò quan trọng 
nhất trong giảng dạy TACN nói chung 
và trong TACN kế toán nói riêng. Hai 
kỹ năng còn lại là nghe và nói cũng góp 
phần nâng cao kiến thức TACN của sinh 
viên nên cũng được giảng dạy xen kẽ 
trong quá trình học.
3. Thực trạng tình hình dạy và 
học Tiếng Anh chuyên ngành kế toán 
tại Khoa kinh tế - Đại học Mở Hà Nội
3.1. Đặc điểm của giáo trình TACN 
kế toán 
Giáo trình sử dụng để giảng dạy 
môn TACN kế toán là “How to pass Book-
keeping” (First level) do Phòng Công 
nghiệp và thương mại Luân Đôn xuất bản. 
Giáo trình nhằm đào tạo cho học viên có 
khả năng: nâng cao vốn từ vựng và thuật 
ngữ chuyên ngành kế toán, thực hiện các 
ghi chép sổ sách kế toán cơ bản. 
Giáo trình bao gồm 23 chủ đề (trong 
23 chương) gắn liền với các khía cạnh của 
lĩnh vực kế toán. Các chủ đề được trình bày 
theo thứ tự tăng dần về độ khó của kiến 
thức kế toán như mua hàng (purchases), 
bán hàng (sales), phân loại tài sản (types of 
assets); ghi chép sổ Nhật ký (Journals, Day 
books), ghi chép sổ cái (ledgers), sổ quỹ 
(cash books), định khoản (book-keeping 
entry), lập báo cáo kết quả kinh doanh 
(Trading and Profi t/ Loss accounts), lập 
bảng cân đối kế toán (balance sheets)...Các 
bài tập rất đa dạng gồm bài tập lí thuyết 
và thực hành nghiệp vụ kế toán như định 
khoản, cân đối tài khoản, phản ánh sổ tiền 
mặt, lập bảng cân đối kế toán, lập báo cáo 
kết quả kinh doanh ...
3.2. Phân bổ thời gian đào tạo môn 
Tiếng Anh chuyên ngành kế toán
Môn TACN kế toán gồm 6 tín chỉ 
chia làm 2 học phần, mỗi học phần 3 
tín chỉ (học phần 4 và học phần 5) được 
giảng dạy sau khi sinh viên hoàn thành 
xong 3 học phần Tiếng anh cơ bản 1, 2, 
3 theo chương trình đào tạo chung của 
nhà trường.
+ Học phần 4, SV học trong học kỳ 
1 năm thứ 3; nội dung học từ chương 1-13 
+ Học phần 5, SV học trong học kỳ 2 
năm thứ 3; nội dung học từ chương 14-23. 
3.3. Đội ngũ giảng viên và phương 
pháp giảng dạy
Đội ngũ giảng viên TACN kế toán 
gồm có 3 giảng viên cơ hữu.
Về phương pháp giảng dạy, các 
giảng viên vừa kết hợp phương pháp 
6 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
truyền thống lẫn hiện đại. Trên thực tế các 
giờ học được thực hiện dưới hình thức 
giáo viên truyền đạt kiến thức (teacher-
centered) chiếm nhiều thời gian hơn vì các 
bài học Tiếng Anh chuyên ngành liên quan 
đến các thuật ngữ, nghiệp vụ cụ thể nên 
sinh viên khó hiểu. Tuy nhiên, các giảng 
viên đều cố gắng tận dụng phương pháp 
lấy trò làm trung tâm (learner-centered) 
bằng cách đưa ra các câu hỏi nghiên cứu, 
nêu lên các vấn đề yêu cầu sinh viên giải 
quyết, hoặc thuyết trình về một vấn đề nào 
đó trước lớp; sinh viên có thể thực hiện 
các hoạt động theo cặp, nhóm hoặc cá 
nhân. Cuối buổi học giao bài tập về nhà và 
buổi tiếp theo chữa bài tập cho sinh viên. 
3.4. Sinh viên và kiến thức nền 
tảng về kế toán
Sinh viên năm thứ 3 được đăng kí học 
TACN sau khi đáp ứng đủ điều kiện tiên 
quyết là hoàn thành 3 học phần Tiếng anh 
cơ bản 1, 2, 3 (9 tín chỉ) theo chương trình 
đào tạo chung của trường. Sinh viên năm 
thứ ba cũng có kiến thức cơ bản về chuyên 
ngành kế toán vì đã học môn Nguyên lý kế 
toán và kế toán doanh nghiệp.
4. Phạm vi, đối tượng, phương 
pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu những khó khăn trong 
quá trình giảng dạy Đọc hiểu Tiếng Anh 
chuyên ngành kế toán, một nghiên cứu 
được thực hiện với các giảng viên dạy 
TACN kế toán của khoa và 120 sinh viên 
đang học năm thứ 3 (năm học 2019 - 2020) 
chuyên ngành kế toán của Khoa Kinh tế - 
Đại học Mở Hà Nội (sinh viên K26). 
Nghiên cứu sử dụng phương pháp 
nghiên cứu định tính và định lượng với 
bốn cách thu thập dữ liệu là quan sát, 
phỏng vấn, phiếu khảo sát và ghi nhật kí 
giảng dạy.
5. Kết quả nghiên cứu
5.1. Thảo luận kết quả thông qua khảo sát sinh viên
Bảng 1: Đánh giá của sinh viên về sự phù hợp của giáo trình TACN kế toán
Hầu hết các sinh viên (87%) đều nhận xét giáo trình môn TACN rất hữu ích và phù 
hợp với sinh viên vì họ có thể nâng cao vốn từ vựng TACN và vận dụng những kiến thức kế 
toán chuyên ngành đã được học (nguyên lí kế toán, kế toán doanh nghiệp...) để hiểu bài học 
TACN dễ dàng.
7Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Bảng 2: Những khó khăn của sinh viên khi học Tiếng Anh chuyên ngành kế toán
Những khó khăn mà sinh viên gặp 
phải nhiều nhất đó là khó khăn trong 
việc ghi nhớ các thuật ngữ chuyên ngành 
(63%), hiểu bài giảng bằng Tiếng Anh 
(46%); khó khăn tiếp theo là hiểu nội 
dung bài đọc (41%), 29% sinh viên gặp 
khó khăn khi làm bài tập TACN. Số liệu 
trên phản ánh những khó khăn chủ yếu 
tập trung vào việc ghi nhớ các thuật ngữ, 
khái niệm các thuật ngữ, hiểu nội dung 
bài đọc trong giáo trình và hiểu bài giảng 
bằng Tiếng Anh. Đó là lý do vì sao giảng 
viên thường xuyên phải giảng nội dung lí 
thuyết bằng Tiếng Anh và cả Tiếng Việt. 
Đối với phần bài tập, sau khi hướng dẫn 
bằng Tiếng Anh, giảng viên phải giải thích 
tỉ mỉ kĩ thuật làm bài bằng Tiếng Việt để 
sinh viên biết cách làm bài nên ít SV gặp 
khó khăn trong việc làm bài tập ứng dụng.
Nguyên nhân của những khó khăn 
trong việc hiểu nội dung lí thuyết và làm 
bài tập là gì? Sinh viên mong muốn điều 
gì ở giảng viên? 
Nguyên nhân của khó khăn trong 
sinh viên khi học TACN kế toán được chia 
ra làm 2 nhóm: Nhóm thứ nhất là nguyên 
nhân xuất phát từ phía sinh viên và nhóm 
nguyên nhân thứ hai là xuất phát từ phía 
giảng viên.
Ở nhóm nguyên nhân thứ nhất, kết 
quả khảo sát cho thấy có hai nguyên nhân 
chính khiến sinh viên gặp khó khăn trong 
học đọc hiểu TACN là thiếu vốn từ vựng 
TACN (61%) và thiếu vốn kiến thức 
Tiếng Anh để hiểu được các bài giảng 
bằng Tiếng Anh (32%). 31% SV cho rằng 
nội dung bài đọc khó. Một lí do chủ quan 
không nhỏ là khả năng tự học sinh viên 
còn chưa cao (41%). Nhiều SV khi được 
hỏi về phương pháp tự học thì đều cho 
biết SV không nghiên cứu trước bài học 
và trông chờ vào việc giảng của GV trên 
lớp. Kết quả khảo sát cho thấy các SV 
đều có kiến thức nền tảng về bài học và 
giáo trình đã hướng dẫn SV cách làm bài 
tập kĩ càng.
8 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Bảng 3: Nguyên nhân những khó khăn của sinh viên trong học TACN kế toán (nhóm nguyên 
nhân từ phía sinh viên)
Bảng 4: Nguyên nhân những khó khăn của sinh viên trong học TACN kế toán 
(nhóm nguyên nhân từ phía giảng viên)
Ở nhóm nguyên nhân thứ hai, kết 
quả khảo sát cho thấy các nguyên nhân 
bắt nguồn từ phía giảng viên chủ yếu là 
thiếu sự đa dạng về phương pháp giảng 
dạy (54%) và thiếu tài liệu bổ trợ cho bài 
học (52%). Trên thực tế, các nguồn tài liệu 
bổ trợ cho bài học chủ yếu là trên internet; 
sách chuyên khảo gần như không có. 27% 
sinh viên muốn có thêm bài tập ứng dụng 
ngay sau bài giảng lí thuyết và 25% sinh 
viên cho rằng bài tập bổ trợ sau bài học 
vẫn chưa đủ. Các giản

File đính kèm:

  • pdfbien_phap_khac_phuc_kho_khan_trong_giang_day_tieng_anh_chuye.pdf
Tài liệu liên quan