Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán
Nước là nguồn cội của sự sống, là một trong những hợp chất cấu tạo và nuôi dưỡng mọi sinh vật trên
trái đất. Nước gắn bó mật thiết với mỗi người, mỗi dân tộc và các nền văn hóa. Trong tiếng Hán và
văn hóa Trung Quốc, nước được ánh xạ tới rất nhiều hiện tượng, sự vật và sự tình. Dựa trên lý thuyết
ẩn dụ ý niệm của Lakoff và Johson (1980), bài viết sơ bộ phân tích về một số mô hình ẩn dụ khúc xạ
qua thành tố nước đến miền đích con người được biểu đạt qua lớp từ vựng tiếng Hán. Nghiên cứu
cho thấy, nước với những thuộc tính vốn có của nó qua quá trình tư duy, tri nhận mang đặc trưng văn
hóa dân tộc đã đóng vai trò là miền nguồn ánh xạ tới diện mạo, đặc điểm tính cách, tâm, trạng, tình
cảm, phẩm chất, trí tuệ, công sức và nghị lực của con người. Kết quả nghiên cứu nhằm góp thêm tài
liệu tham khảo trong dạy học, đối chiếu, nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài tại Việt Nam.
ợc dòng suối lạnh, dòng nước lững lờ trong đêm tiễn đưa nỗi buồn của lữ khách”. Nguyên Chân với bài “《离思》/Li tứ” ( tianya.cn/post-poem-126051-1.shtml) đã biểu đạt tình cảm tiếc thương sâu nặng của mình với người vợ đã mất qua câu: (VD 13) “曾经沧海难为水,除去巫山不是云/Tằng kinh Thương Hải nan vi thủy, trừ khử Vu sơn bất thị vân – Đã qua Thương Hải thì khó có nước nơi nào là đẹp nữa, không núi nào có mây đẹp như Vu Sơn”. Qua hình ảnh sông nước Thương Hải mênh mông, nhà thơ không còn cảm nhận thấy cái đẹp làn nước nơi khác của nữa. Vu Sơn có đỉnh Chiêu Vân cao như chạm tới mây trời, mây nơi khác không thể sánh được. Với nhà thơ, người vợ đã mất được ví như Thương Hải, Vu Sơn. Không cô gái nào khác có thể thay thế, giành được tình yêu của nhà thơ như dành cho vợ mình. Tình yêu này là vĩnh hằng. Lí Bạch trong bài “《江夏行》/Giang hạ hành” (Trần Trọng Kim - tuyển dịch, 1995) đã viết: (VD 14)“眼看帆去远,心逐江水流/Nhãn khán phàm khứ viễn, tâm trục giang thủy lưu – Mắt nhìn cánh buồm xa khơi, lòng theo con nước cùng đi với thuyền”. Ý của hai câu thơ trên diễn tả tình cảm nhớ nhung của người thiếu phụ có chồng là thương nhân đang ngồi thuyền giong buồm đi xa. Tình cảm của người vợ dường như đang đuổi theo con nước chảy đến cập mạn con thuyền có người chồng đang ngồi. Các ví dụ trên đã miêu tả tình thân, tình bạn và cả tình yêu qua miền ẩn dụ ý niệm nước là tình cảm của con người. 3.5. Nước là phẩm hạnh Nước biểu trưng cho sự trong sạch. Bản thân nước có tính năng làm sạch, gột rửa và trung hòa. Nước còn giúp chữa khỏi một số bệnh tật, giúp cho con người tươi trẻ. Do đó, nước được coi là thiêng liêng, được dùng trong các nghi lễ tắm gội, xóa bỏ mọi lỗi lầm và mọi vết nhơ. Trong tiếng Hán, nước được ví như người có phẩm cách tốt đẹp qua cách diễn đạt: “上盖 若水/Thượng cái nhược thủy – Tưới cho vạn vật như nước/nước tưới mát cho vạn vật nhưng không tranh giành thứ gì”, “饮水思源/ẩm thủy tư nguyên - uống 43KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 VĂN HÓA - VĂN HỌC v nước nhớ nguồn”, “静水流深/Tĩnh thủy lưu thâm – Nước lặng chảy vào chỗ sâu: đạo làm người là không khoa trương, có thái độ khiêm nhường, không để cho mâu thuẫn ràng buộc, không để cho dục vọng trói buộc”. Một số câu thơ diễn tả như sau: (VD 15)“朗如日月,清如水镜/Lãng như nhật nguyệt, thanh như thủy kính – Sáng như mặt trăng mặt trời, trong như dòng nước và gương sáng”. (Dương Quýnh《郪县令扶风窦兢字思谨赞》Thê huyện lệnh phù phong độc kinh tự tư cẩn tán) (Trần Trọng Kim - tuyển dịch, 1995). Ý thơ ca ngợi quan lại thời xưa thanh liêm chính trực. Ngày nay ví với những người có nhân cách và tiết tháo cao thượng, được mọi người ngưỡng mộ. (VD 16)“息阴无恶木,饮水必清源/Tức âm vô ác mộc, ẩm thủy tất thanh nguyên – Nghỉ dưới tán cây cần chọn cây lành, uống nước sông cần chọn nơi có nguồn nước sạch”. (Vương Duy《济上四贤咏》Tế thượng tứ hiền vịnh/ Vịnh Tế Thượng Tứ hiền) (Trần Trọng Kim - tuyển dịch, 1995). Tứ thơ miêu tả phẩm cách thanh bạch, cao thượng của con người. (VD 17) “在山泉水清,出山泉水浊/Tại sơn tuyền thủy thanh, xuất sơn tuyền thủy trọc – Nước nguồn trong núi thì trong, nước ra khỏi núi nước trong đục ngầu”. Đỗ Phủ đã ví sự thanh tao của ẩn sĩ khi sống trong núi, nhưng khi rời núi về với đời thường thì tâm hồn lại bị vẩn đục. (Đỗ Phủ《佳人》/Giai nhân) (Trần Trọng Kim - tuyển dịch, 1995). 3.6. Nước là trí tuệ và tài năng Người Trung Quốc thường nói đến kiến thức với nhiều tầng bậc khác nhau, càng đi sâu nghiên cứu sẽ càng thấy được những điều tinh túy. Có cách diễn đạt như sau: (VD 18) “知识好像砂石地下的泉水,掘得越深越清 澈/Kiến thức giống như dòng suối ngầm dưới lớp cát sỏi, càng đào sâu xuống thì càng trong” (https://mojim. com/twy106358x1x1.htm). (VD 19) “小溪声喧哗,大海寂无声/Con suối nhỏ tiếng nước chảy ào ào, biển lớn tịch mịch lặng tiếng” (https://mojim.com/twy106358x1x1.htm). Ví dụ (19) miêu tả người có chút công trạng hay kiến thức thường ồn ào khoe khoang, lớn tiếng ồn ào như tiếng nước suối nhỏ tuôn chảy; người thực sự có kiến thức uyên thâm, bác học thường khiêm nhường ít tiếng, ví như sự tĩnh mịch của biển cả. Trong tiếng Hán còn dùng:“求贤若渴/Cầu hiền nhược khát – Tìm người tài như người khát tìm nước uống/khát khao tìm kiếm nhân tài”, “沧海拾珠/ Thương hải thập châu – Nhặt châu ngọc nơi biển cả/ tìm kiếm nhân tài”, “蛟龙得水/Giao long đắc thủy – Giao long gặp nước: nhân tài có đất dụng võ”, “激浊 扬清/Kích trọc dương thanh – Gạn đục khơi trong/ chọn lấy người tài”để chỉ địa vị quan trọng của người có tài. Hoặc miêu tả những người giỏi giang qua cách diễn đạt: “八仙过海/Bát tiên quá hải – Tám vị tiên vượt biển/mỗi người có một biệt tài”, “口若悬 河/Khẩu nhược huyền hà - miệng như nước chảy trên cao/có biệt tài hùng biện”, “智者乐水/trí giả nhạc thủy – Người thông minh biết trị nước/người thông minh thường xử lí công việc, phản ứng linh hoạt như nước chảy”. 3.7. Nước là công sức và nghị lực Nước chảy sinh ra công lực, tạo ra năng lượng. Trong tiếng Hán diễn đạt:“涓涓不息,而成江河/Quyên quyên bất tức, nhi thành giang hà – Dòng nước nhỏ chảy chậm, cũng tích thành sông lớn/tích tiểu thành đại”, “不到黄河不死心/Bất đáo Hoàng Hà bất tử tâm – Chưa đến Hoàng Hà thì lòng chưa nản/làm đến cùng”, “河山带砺/Hà sơn đới lệ – Hoàng Hà sông dài và hẹp, Thái Sơn đá thô ráp/dẫu bao lâu, biến cố thế nào cũng không thay đổi”, “中流砥柱/Trung lưu để trụ – Núi Đế Trụ vững chắc trong dòng xiết Hoàng Hà: trụ cột vững vàng”để biểu đạt nghị lực, quyết tâm của con người. (VD 20)“凭他的那种水滴石穿的学习毅力一定能像 艺术的高峰发展/Với nghị lực học tập bền bỉ như vậy, nó nhất định sẽ vươn tới đỉnh cao của nghệ thuật” (http:// blog.sina.com.cn/s/blog_405935730101dv69.html). Trong ví dụ trên, “水滴石穿/Thủy đê thạch xuyên – Nước nhỏ giọt nhưng có thể xuyên qua đá”, cũng chính là sự miêu tả ý chí bền bỉ, quyết tâm của con người. Những ngữ cố định tiếng Hán biểu thị sự uổng phí công sức con người liên quan đến nước thường gặp như: “精卫填海/Tinh Vệ điền hải – Dã tràng xe cát/ công dã tràng, công cốc”, “打水漂/đả thủy phiêu – ném đá lướt trên mặt nước/uổng phí công sức mà không thu được kết quả gì”, tương tự còn có các ngữ cố định khác, như “海底捞月/hải để lao nguyệt – mò trăng đáy nước”, “竹篮打水/trúc lam đả thủy – dùng làn tre múc nước”, “煎水作冰/chiên thủy tác băng – rán nước làm băng”. 44 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017 v VĂN HÓA - VĂN HỌC Tiếng Hán đã ý niệm hóa, nhân cách hóa thực thể nước bằng những ngôn từ liên quan đến tự nhiên, xã hội và con người qua một số mô hình ẩn dụ ý niệm cấu trúc nêu trên. Với các mô hình ẩn dụ ý niệm bản thể và định hướng qua MIỀN NGUỒN là thành tố nước trong tiếng Hán, chúng tôi xin được luận bàn trong những nghiên cứu sau này. 4. KẾT LUẬN Trải qua quá trình lịch sử, tiếng Hán đã chứa đựng trong mình những trầm tích văn hóa của các dân tộc Trung Hoa. Từ góc nhìn ẩn dụ ý niệm khúc xạ qua thành tố nước, bước đầu chúng ta có thể thấy được một số nét chấm phá của đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa Trung Quốc. Là một trong ngũ hành, nước dưới góc nhìn của người Trung Quốc có rất nhiều đặc tính phức tạp, mang cả ý nghĩa tích cực và tiêu cực ánh xạ đến con người. Do đó, ý nghĩa ẩn dụ của nước trong ngôn ngữ Hán khá đa dạng, thể hiện rõ nét đặc điểm tri nhận, khả năng tư duy liên tưởng, gắn nước với đời sống xã hội của con người. Cho thấy, ẩn dụ ý niệm của nước không chỉ là vấn đề thuần túy ngôn ngữ, mà con là vấn đề văn hóa hết sức lý thú. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đã cố gắng làm rõ mô hình ẩn dụ ý niệm của nước với con người trong ngôn ngữ Hán qua 7 tiểu loại khác nhau, gồm: nước đã đóng vai trò là miền nguồn ánh xạ tới diện mạo, đặc điểm tính cách, tâm trạng, tình cảm, phẩm chất, trí tuệ, công sức và nghị lực của con người. Tuy nhiên, những nội dung trên mới chỉ điểm qua ở một góc rất hẹp, còn tản mạn, chưa thể giải nghĩa thấu đáo, rõ ràng, đầy đủ về các vấn đề ẩn dụ ý niệm trong tiếng Hán. Chúng tôi hy vọng tới đây sẽ tiếp tục có những nghiên cứu để bổ sung tài liệu cho nghiên cứu, đối chiếu và dạy học ngôn ngữ – văn hóa nước ngoài tại Việt Nam./. Tài liệu tham khảo: 1. Phan Thế Hưng (2007), Ẩn dụ ý niệm, Tạp chí Ngôn ngữ, Số 7, tr. 9. 2. Trần Trọng Kim - tuyển dịch (1995), Đường thi, NXB Văn hóa Thông tin TP. Hồ Chí Minh. 3. Lí Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, NXB Phương Đông, Hà Nội. 4. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc tr ưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và t ư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 5. G. Lakoff and M. Johnson (1980), Metaphor we live by, Chicago, London. 6. < lu/134466164610869.html>. 7. . 8. < blog_405935730101dv69.html>. 9. . ON THE CONCEPTUAL CHINESE METAPHORS OF SHUI/WATER AS RELATED TO HUMANS CAM TU TAI Abstract: Water is the resource of life, is one of the compounds forms and nurtures all creatures on earth. Water is also more closely linked with each person, every nation and every culture. In Chinese and Chinese culture, water is mapped to a lot of phenomena, objects and contexts. This article is conducted based on the theory of conceptual metaphors by Lakoff and Johnson (1980) and through a preliminary analysis of some conceptual metaphors which are mapped to water elements in Chinese vocabulary. The article shows that water, with its inherent properties through the process of thinking and cognition, characterizes the Chinese culture whose role is the reflection source to the target source of human and their movements in social life. The articles depicts the metaphors of water, which contain human-related attributes are face, characteristic, mood, emotion, quality, intelligence, industriousness and determination. The research is undertook in an attempt to make a contribution to the teaching and researching of foreign languages and cultures in Vietnam and elsewhere. Keywords: conceptual metaphors, Chinese, cognition, culture.
File đính kèm:
- 46_5963_2137231.pdf