An investigation into tesol postgraduates’ reading habits at Ho Chi Minh city open university
Hiện nay, Trường Đại học Mở thành phố
Hồ Chí Minh (TP. HCM) đã và đang đào tạo
trình độ thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và phương
pháp dạy học bộ môn Tiếng Anh (TESOL) với
một số môn học chuyên ngành như: Lý thuyết
dạy và học ngôn ngữ, Phương pháp giảng dạy
nâng cao, Phương pháp kiểm tra đánh giá, hay
Ngôn ngữ và văn hóa trong dạy học, v.v. Để
hoàn thành chương trình học đầy tính hàn lâm
này, các học viên cao học (postgraduates) đòi hỏi
phải tham gia thuyết trình, và viết các bài luận
cho mỗi môn học (academic tasks), thể hiện kiến
thức và tư duy của người học. Theo đó, muốn đạt
kết quả học tập tốt (good learning outcomes), thì
mỗi học viên cao học cần phải xây dựng một thói
quen đọc tích cực và khoa học (good reading
habit). Nhấn mạnh về mối quan hệ này, Lanying1
cho rằng người học nên đọc nhiều tài liệu và đa
dạng về thể loại bài đọc thì mới đáp ứng được
yêu cầu của các môn học. Nếu hành động đọc
này được lặp đi lặp lại thường xuyên thì nó dần
dà hình thành nên một thói quen đọc tích cực
cho người học (Iftanti).2 Tác giả này cũng khẳng
định thói quen đọc khoa học và tích cực sẽ là
một công cụ quan trọng cho quá trình phát triển
năng lực tư duy và nhận thức của người học,
nhất là trong việc học ngôn ngữ. Thông qua thời
lượng dành cho việc đọc, thể loại và số lượng
tài liệu đọc cũng như cách thức đọc sẽ phần nào
phản ánh được thói quen đọc đó có mang tính
khoa học hay không. Mặt khác, một thói quen
đọc khoa học và tích cực được xây dựng trên
nền tảng các chiến lược đọc hợp lý (reading
strategies), vì chúng hỗ trợ đắc lực cho người
học hiểu rõ những gì mình đang đọc, thể hiện sắc
nét năng lực tư duy của người học (Grabe).
43 QUY NHON UNIVERSITY SCIENCEJOURNAL OF Journal of Science - Quy Nhon University, 2019, 13(6), 43-53 An investigation into TESOL postgraduates’ reading habits at Ho Chi Minh City Open University Truong Minh Hoa* Ho Chi Minh City Open University Received: 05/10/2019; Accepted: 06/11/2019 ABSTRACT Exploring learners’ reading habits has recently been paid attention by numerous educators, helping orient learners to possess a good reading habit. The fact shows that learners’ reading habits and their academic performances have been interrelated. The present survey study was carried out on over 75 TESOL postgraduates at Ho Chi Minh City Open University. Based upon the preliminary results, the study investigated how these students possessed their reading habits as well as what factors directly hindered their reading habits. Finally, this paper recommended some solutions to help the learners improve their act of reading. Key words: Reading habits, postgraduates, TESOL. *Corresponding author. Email: Ngutngonnguhoc91@gmail.com 44 TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN KHOA HỌCTẠP CHÍ Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2019, 13(6), 43-53 Tìm hiểu thói quen đọc của học viên cao học chuyên ngành Phương pháp giảng dạy tiếng Anh tại trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh Trương Minh Hòa* Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 05/10/2019; Ngày nhận đăng: 06/11/2019 TÓM TẮT Việc tìm hiểu thói quen đọc của người học đã nhận được nhiều sự quan tâm từ các nhà giáo dục, giúp định hướng người học có một thói quen đọc tích cực và khoa học hơn. Thực tế chỉ ra rằng giữa thói quen đọc và kết quả học tập có mối quan hệ mật thiết. Bài nghiên cứu này khảo sát trên 75 học viên cao học chuyên ngành Phương pháp giảng dạy tiếng Anh tại Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh. Dựa theo kết quả nghiên cứu sơ bộ, bài viết đã tìm ra thói quen đọc thực tế của nhóm đối tượng này như thế nào và những yếu tố nào ảnh hưởng trực tiếp đến thói quen đọc đó. Cuối cùng, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp các học viên cao học này có những hoạt động đọc hiệu quả. Từ khóa: Thói quen đọc, học viên cao học, giảng dạy tiếng Anh. *Tác giả liên hệ chính. Email: Ngutngonnguhoc91@gmail.com 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) đã và đang đào tạo trình độ thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn Tiếng Anh (TESOL) với một số môn học chuyên ngành như: Lý thuyết dạy và học ngôn ngữ, Phương pháp giảng dạy nâng cao, Phương pháp kiểm tra đánh giá, hay Ngôn ngữ và văn hóa trong dạy học, v.v... Để hoàn thành chương trình học đầy tính hàn lâm này, các học viên cao học (postgraduates) đòi hỏi phải tham gia thuyết trình, và viết các bài luận cho mỗi môn học (academic tasks), thể hiện kiến thức và tư duy của người học. Theo đó, muốn đạt kết quả học tập tốt (good learning outcomes), thì mỗi học viên cao học cần phải xây dựng một thói quen đọc tích cực và khoa học (good reading habit). Nhấn mạnh về mối quan hệ này, Lanying1 cho rằng người học nên đọc nhiều tài liệu và đa dạng về thể loại bài đọc thì mới đáp ứng được yêu cầu của các môn học. Nếu hành động đọc này được lặp đi lặp lại thường xuyên thì nó dần dà hình thành nên một thói quen đọc tích cực cho người học (Iftanti).2 Tác giả này cũng khẳng định thói quen đọc khoa học và tích cực sẽ là một công cụ quan trọng cho quá trình phát triển năng lực tư duy và nhận thức của người học, nhất là trong việc học ngôn ngữ. Thông qua thời lượng dành cho việc đọc, thể loại và số lượng tài liệu đọc cũng như cách thức đọc sẽ phần nào phản ánh được thói quen đọc đó có mang tính khoa học hay không. Mặt khác, một thói quen đọc khoa học và tích cực được xây dựng trên nền tảng các chiến lược đọc hợp lý (reading strategies), vì chúng hỗ trợ đắc lực cho người học hiểu rõ những gì mình đang đọc, thể hiện sắc nét năng lực tư duy của người học (Grabe).3 Tác giả này cũng đề ra hai mươi chiến lược đọc quan 45 QUY NHON UNIVERSITY SCIENCEJOURNAL OF Journal of Science - Quy Nhon University, 2019, 13(6), 43-53 trọng, chẳng hạn như: Liên tưởng, suy luận, tóm tắt, dự đoán, hay ghi chú, v.v... Nghiên cứu về thói quen và sở thích đọc của học viên cao học chuyên ngành ngôn ngữ Anh của Noor4 đã cho thấy phần lớn những học viên này thường đọc nhiều thể loại bài viết khác, có nhiều lý do cho việc đọc của mình, nhưng tựu trung lại họ thích đọc tài liệu online, với mục đích có thêm tư liệu phục vụ cho việc thi cử. Tác giả của nghiên cứu này đã kết luận lại bằng một lời khuyên thiết thực rằng học viên cao học nên đọc nhiều tài liệu cả về số lượng lẫn thể loại thì mới đảm bảo hiệu quả học tập (academic achievement). Mặc dù đa phần người học có niềm tin sâu sắc vào tầm quan trọng của hoạt động đọc, tuy nhiên các nhóm đối tượng người học khác nhau, bao gồm người học ngành ngôn ngữ sẽ sở hữu các thói quen đọc khác nhau. Thực tế chỉ ra rằng trong khi một số người học có thói quen đọc tích cực, thì dường như số khác lại thể hiện thói quen đọc chưa khoa học. Kết quả nghiên cứu của Issa, Aliyu, Akangbe và Adedeji5 cho thấy những học sinh có thói quen đọc thiếu tính khoa học và hệ thống đã ít nhiều ảnh hưởng xấu đến kết quả các bài kiểm tra của họ ở trường. Nhóm tác giả này cũng thừa nhận rằng kết quả học tập thấp do thói quen đọc thiếu tích cực đã gây ra nhiều mối lo lắng cho các thầy cô và chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục. Tương tự, nghiên cứu của hai tác giả Owusu-Acheaw and Larson6 kết luận rằng kết quả thấp từ các bài kiểm tra của học sinh xuất phát từ thực tế những học sinh này thiếu thói quen đọc hợp lý. Như vậy, giữa thói quen đọc và kết quả các bài luận cũng như quá trình tiếp nhận kiến thức môn học (knowledge acquisition) sẽ tỷ lệ thuận với nhau; nghĩa là, người học sở hữu thói quen đọc tích cực sẽ gặt hái một số kết quả cao nhất định trong các bài luận, đồng thời quá trình lĩnh hội kiến thức môn học cũng diễn ra nhanh và sâu hơn, và ngược lại. Tella và Akande (2007, được trích lại từ Akanda, Hoq và Hasan)7 đã nhấn mạnh rằng khả năng cũng như thói quen đọc là nguồn cảm hứng của quá trình tự học lâu dài, và nó thể hiện được năng lực tư duy, nhận thức của người học. Tuy nhiên hiện nay, do ảnh hưởng của nhiều loại hình phương tiện truyền thông cũng như các phát minh công nghệ hiện đại mà mọi người dường như không còn hứng thú với việc đọc sách, tạp chí hay tài liệu. Cũng từ kết quả nghiên cứu của Issa và nhóm cộng sự5 đã tiết lộ nhiều học sinh thích xem phim, nghe nhạc, xem các chương trình truyền hình thực tế trên tivi hơn việc đọc. Theo nhận định của nhóm tác giả này, chính thực tế trên đã làm thu hẹp khả năng trở thành người đọc thành công của người học. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến thói quen đọc của người học. Trong bài viết của mình, hai tác giả, Sohail và Alvi8 đã liệt kê bảy nguyên nhân căn bản, bao gồm: 1. Đặc điểm của người đọc; 2. Nhu cầu của người đọc; 3. Đặc điểm của nội dung cần đọc; 4. Năng lực tư duy của người đọc; 5. Giá cả của tài liệu đọc; 6. Tính có sẵn của tài liệu đọc; và 7. Sự tương tác giữa người đọc và tài liệu đọc. Trong khi đó, Lanying1 lại phân loại thành hai nguồn nhân tố chủ yếu, đó là 1. Nhân tố tích cực (encouraging factors); 2. Nhân tố tiêu cực (discouraging factors). Nhân tố tích cực ở đây bao gồm sự động viên từ người dạy, sự hỗ trợ từ người khác, mục đích và thái độ đối với việc đọc, các thể loại bài đọc; ngược lại, nhóm nhân tố tiêu cực gồm năng lực của từng người học hay quỹ thời gian. Tìm ra các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình đọc của người học là một công việc vô cùng quan trọng, định hướng cho người học một thói quen đọc tích cực hơn, khoa học hơn và hiệu quả hơn. Như đã phân tích ở trên, để đạt được kết quả học tập tốt, các học viên cao học chuyên ngành TESOL cần phải nuôi dưỡng một thói quen đọc tích cực và khoa học. Chính vì vậy, bài nghiên cứu này được thực hiện để tìm hiểu trên thực tế nhóm người học này có thói quen và xu hướng đọc như thế nào. Cụ thể, thói quen đọc của nhóm người học này sẽ được miêu tả qua các khía cạnh như sau: 1. Mục đích/ Động lực đọc; 2. Thời gian đọc; 3. Số lượng tài liệu đọc; 4. Loại tài liệu đọc; 5. Địa điểm đọc; và 6. Chiến lược đọc. Tiếp theo đó, tác giả bài viết 46 TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN KHOA HỌCTẠP CHÍ Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2019, 13(6), 43-53 cũng cố gắng xem xét một số nguyên nhân cơ bản đã ảnh hưởng đến thói quen đọc tài liệu của các học viên cao học chuyên ngành TESOL. Từ những kết quả sơ bộ, tác giả bài viết này sẽ đưa ra một số đề xuất cho việc cải thiện hoạt động đọc của nhóm học viên này. Mục tiêu nghiên cứu của bài viết này sẽ đạt được thông qua các câu hỏi nghiên cứu dưới đây: Câu hỏi nghiên cứu 1: Thói quen đọc của học viên cao học chuyên ngành TESOL tại đại học Mở TP. HCM như thế nào? Câu hỏi nghiên cứu 2: Những nhân tố nào ảnh hưởng đến thói quen đọc của nhóm học viên này? 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Đọc hiểu (Reading comprehension) Đọc hiểu là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định người đọc hoặc người học ngôn ngữ có thành công hay không. Tuy nhiên, đọc hiểu là một nhiệm vụ khó khăn nhất đối với người học tiếng Anh. Về mặt lý thuyết, đọc hiểu là một quá trình tương tác nhằm giải mã nội dung (decoding) của một văn bản (Meniado)9, đòi hỏi nhiều kỹ năng và khía cạnh như nhận thức về mặt từ ngữ, nắm bắt ý nghĩa rõ ràng, tư duy suy luận (Hermosa)10. Thêm vào đó, đọc hiểu là một năng lực nhận thức phức tạp đòi hỏi khả năng liên hệ thông tin văn bản với kiến thức nền tảng của người đọc (Meneghetti, Carretti, & Beni)11. Tóm lại, đọc hiểu đề cập đến khả năng hiểu văn bản dựa trên kiến thức về ngữ pháp cơ bản, khả năng xác định các ý chính trong văn bản, nhận thức về cấu trúc diễn ngôn và sử dụng chiến lược đọc hiểu hợp lý.2 2.2. Các chiến lược đọc (Reading strategies) Theo Block,12 các chiến lược đọc có thể giúp người đọc hiểu được những gì họ đang đọc và cách họ sẽ dựa theo để khắc phục các vấn đề trong quá trình đọc (reading problems) và cuối cùng đạt được thành công của việc đọc hiểu. Nhiều nghiên cứu cho thấy người đọc hiệu quả thì thường tích cực tương tác với văn bản và nắm vững các chiến lược họ sẽ sử dụng để hiểu bài đọc. Ghi chú, tóm tắt nội dung, viết lại nội dung theo ngôn ngữ của mình, tự đặt câu hỏi cho mình, dựa vào cấu trúc để hiểu nội dung, suy luận và liên tưởng, đọc nhiều lần, cũng như dịch có thể là những chiến lược hiệu quả giúp cải thiện năng lực đọc hiểu của người học ngôn ngữ.13 Ghi chú và tóm tắt nội dung đòi hỏi người đọc phải xác định được các ý chính và các ý phụ.14 Đây là hai chiến lược giúp người đọc sắp xếp các ý tưởng, đặc biệt là những bài đọc dài và phức tạp.15 Viết lại nội dung theo ngôn ngữ của mình là một cách khác để tóm tắt, tuy nhiên người đọc xử lý thông tin văn bản ở mức sâu hơn.16 Chiến lược này sẽ giúp người đọc nắm được nội dung bài đọc một cách tổng thể, thể hiện được tư duy và sự tích cực của người đọc.17 Tự đặt câu hỏi cho mình là một chiến lược mà người đọc có thể sử dụng trước, trong và sau khi đọc. Quá trình đặt câu hỏi đòi hỏi người đọc tự đặt câu hỏi để xây dựng ý nghĩa, tăng cường hiểu biết, tìm kiếm câu trả lời, giải quyết vấn đề, tìm thông tin và khám phá thông tin mới.11 Dựa vào cấu trúc bài đọc để hiểu nội dung là một chiến lược hữu ích dành cho người đọc trước khi đọc, nó giúp họ nắm được tổng thể nội dung bài đọc về cái gì và kết cấu thế nào,18 đặc biệt trong trường hợp bài đọc chứa nhiều từ ngữ khó hoặc bài đọc quá dài.13 Suy luận và liên tưởng là một chiến lược khác có thể được sử dụng trong quá trình đọc. Với chiến lược này, người học có thể liên kết kiến thức nền của mình và các ý tưởng trong văn bản. Lúc này, viêc đọc trở nên có ý nghĩa hơn khi người đọc kết nối các ý tưởng trong văn bản với kinh nghiệm và niềm tin của họ, và những điều xảy ra ở thế giới bên ngoài.19 Ngoài ra, đọc nhiều lần hoặc dịch cũng là những chiến lược khả dụng trong trường hợp người đọc gặp nhiều khó khăn (comprehension breakdowns) trong việc giải mã thông tin bài đọc, nhất là về mặt ngôn ngữ. Những chiến lược này cũng thể hiện sự tích cực của người đọc khi 47 QUY NHON UNIVERSITY SCIENCEJOURNAL OF Journal of Science - Quy Nhon University, 2019, 13(6), 43-53 họ cố gắng nâng cao khả năng đọc hiểu của mình (Bui;15 Tran,17). 2.3. Một số vấn đề trong việc đọc (Reading problems) Đầu tiên, theo Anderson,20 người đọc luôn mong đợi nắm vững kiến thức ngôn ngữ (language knowledge) trước khi đọc bằng ngôn ngữ thứ hai hoặc ngoại ngữ. Tác giả này cho biết thêm rằng sự hạn chế về từ vựng và cấu trúc ngôn ngữ có thể làm giảm khả năng đọc hiểu. Lili21 chỉ rõ rằng những người đọc giỏi thường nhận ra và giải mã các từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và các mẫu câu một cách nhanh chóng và chính xác. Bên cạnh đó, kiến thức nền (background knowledge) có thể bù đắp cho những người đọc thiếu kiến thức ngôn ngữ. Nói chung, sự quen thuộc với các chủ đề có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng đọc hiểu của người đọc. Do đó, Alderson20 khuyên rằng người đọc nên dành nhiều thời gian để tìm hiểu và mở rộng hiểu biết của họ ở nhiều đề tài, lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, một trong những yếu tố quan trọng nhất có thể dẫn đến khả năng đọc hiểu tốt là động lực (motivation).22 Những phát hiện trong nghiên cứu của họ cho thấy rằng những sinh viên có động lực và hứng thú cao hơn với việc đọc sẽ cải thiện khả năng đọc hiểu hơn là những sinh viên khác có động lực thấp hơn. Do đó, việc đọc hiểu có thể được cải thiện đáng kể cho đến khi người đọc cảm thấy có động lực thực sự. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Ngữ cảnh và mẫu nghiên cứu 3.1.1. Ngữ cảnh nghiên cứu Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh là một trong ba trường tại khu vực miền Nam đào tạo bậc cao học chuyên ngành Phương pháp giảng dạy tiếng Anh (TESOL). Mỗi năm, trường tuyển sinh đầu vào khoảng 40 - 50 học viên, đa phần là các giáo viên, giảng viên tại các trường trung học, cao đẳng, đại học. Tính đến thời điểm hiện tại, trường đã và đang đào tạo được 11 khóa với gần 500 học viên. Để hoàn thành chương trình học này, học viên bắt buộc phải tham gia thuyết trình đầy đủ, hoàn thành các bài tập nhỏ và viết bài luận cuối mỗi môn học (tổng cộng 13 môn học). 3.1.2. Mẫu nghiên cứu Dựa theo mục tiêu nghiên cứu ban đầu, tác giả bài viết đã tiến hành một cuộc nghiên cứu thăm dò (exploratory research) trên 2 lớp cao học TESOL gần đây, là khóa 11 (2016 - 2018), khóa 12 (2017 - 2019) với tổng số 89 học viên, trong đó bao gồm 17 học viên nam (chiếm 19,10%) và 72 học viên nữ (chiếm 80,90%). Mẫu nghiên cứu này được lựa chọn dựa theo phương pháp lấy mẫu có mục đích (purposive sampling method). Tuy nhiên, trên thực tế chỉ có 75 học viên hoàn thành bảng câu hỏi khảo sát, tức là khoảng 84,27% so với tổng số học viên trong mẫu chọn nghiên cứu. Như vậy, mẫu nghiên cứu chính thức của bài viết này là 75 học viên. 3.2. Công cụ và tiến trình thu thập dữ liệu 3.2.1. Công cụ nghiên cứu Như đã giới thiệu ở trên, đây là một bài nghiên cứu khảo sát, do đó tác giả bài viết đã sử dụng phương pháp định lượng (quantitative method) là chính để thu thập dữ liệu. Với phương pháp định lượng, tác giả bài nghiên cứu này sử dụng bảng câu hỏi khảo sát (questionnaire) được phát triển từ kết quả nghiên cứu của các nhóm tác giả như Noor (2011), Akanda, Hoq và Hasan (2013), Owusu-Acheaw và Larson (2014). Bảng câu hỏi khảo sát này gồm 34 câu, sử dụng thang đo Likert 5 mức độ, từ 1 (hoàn toàn không đồng ý) đến 5 (hoàn toàn đồng ý). Độ tin cậy của bảng câu hỏi khảo sát này tương đối cao với hệ số Cronbach’s Alpha = .709. 3.2.2. Tiến trình thu thập và xử lý dữ liệu Đầu tiên, tác giả của bài nghiên cứu này liên hệ với các học viên hai lớp cao học TESOL khóa 9 và 10 qua thư điện tử. Trong thư này, tác giả trình bày một số thông tin chính như: tên chủ đề, mục đích, nội dung cốt lõi của bảng câu hỏi 48 TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN KHOA HỌCTẠP CHÍ Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2019, 13(6), 43-53 khảo sát, cũng như lời cảm ơn; đồng thời, tác giả bài viết gửi đính kèm bảng câu hỏi khảo sát cho các học viên (online questionnaire). Bước gửi phiếu khảo sát này được tiến hành trong hai ngày. Ba tuần sau đó, tác giả bài viết đã tiến hành tổng hợp lại tất cả các phiếu phản hồi online của học viên với tổng số 75 phiếu, nhập dữ liệu vào phần mềm tính SPSS phiên bản 20.0, để truy xuất ra số trung bình (Mean scores), độ lệch chuẩn (Standard Deviation) của từng câu hỏi. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Phần này trình bày kết quả cũng như bình luận của hai câu hỏi nghiên cứu, gồm 7 bảng biểu như bên dưới. Mức độ đồng ý của mỗi câu hỏi được chia thành 3 khoảng: 1.00 - 2.60 (không đồng ý), 2.61 - 3.40 (đồng ý ở mức độ trung bình), 3.41 - 5.00 (đồng ý mức độ cao). 4.1. Câu hỏi nghiên cứu 1: Thói quen đọc của học viên cao học chuyên ngành TESOL tại đại học Mở TP. HCM như thế nào? Bảng 1. Mục đích của việc học Câu Nội dung câu hỏi Số học viên (N) Số trung bình (M) Độ lệch chuẩn (SD) Xếp hạng (Ranking) Trong suốt quá trình học chương trình cao học TESOL tại trường, 01 Tôi đọc để tìm thông tin, ý tưởng cho bài thuyết trình 75 4.62 .75 1 02 Tôi đọc để tìm thông tin, ý tưởng cho bài luận cuối mỗi môn học 75 4.47 .83 2 03 Tôi đọc để chuẩn bị bài trước khi nghe giảng 75 3.96 .86 3 04 Tôi đọc như là cách để thư giãn 75 2.71 .92 5 05 Tôi đọc để cải thiện năng lực ngôn ngữ của mình 75 3.34 .78 4 Kết quả từ Bảng 1 cho thấy đa phần các học viên cao học tìm đọc tài liệu với mục đích chính yếu là hoàn thành các yêu cầu của môn học, chẳng hạn như: thuyết trình (Câu 1, M= 4.62; SD= .75), hoặc các bài luận cuối mỗi môn học (Câu 2, M= 4.47; SD= .83). Bên cạnh đó, nhiều học viên cũng thừa nhận rằng việc đọc là cần thiết, giúp họ hiểu bài hơn trước khi đến lớp nghe giảng (Câu 3, M= 3.96; SD= .86). Câu 4 chỉ ra rằng việc đọc như cách để giải trí không được nhiều học viên lựa chọn (M= 2.71; SD= .92). Như một tín hiệu đáng mừng, cũng khá nhiều người phản hồi đánh giá cao vai trò của hoạt động đọc trong việc tăng cường năng lực ngôn ngữ (language proficiency), như các kỹ năng đọc hiểu, viết, từ vựng, ngữ pháp, v.v... (M= 3.34; SD= .78). Bảng 2. Mức độ thường xuyên của việc đọc Câu Nội dung câu hỏi Số học viên (N) Số trung bình (M) Độ lệch chuẩn (SD) Xếp hạng (Ranking) Trong suốt quá trình học chương trình cao học TESOL tại trường, 06 Tôi thường đọc một giờ mỗi ngày 75 3.18 .62 3 07 Tôi thường đọc hai giờ mỗi ngày 75 2.82 .67 4 08 Tôi thường đọc nhiều hơn hai giờ mỗi ngày 75 2.76 .81 5 09 Tôi đọc chỉ khi có bài thuyết trình hay bài kiểm tra 75 3.71 .80 2 10 Tôi thỉnh thoảng mới đọc 75 3.88 .76 1 49 QUY NHON UNIVERSITY SCIENCEJOURNAL OF Journal of Science - Quy Nhon University, 2019, 13(6), 43-53 Như kết quả được trình bày trong Bảng 2, phần đông học viên chỉ thỉnh thoảng mới đọc, nghĩa rằng họ đọc không thường xuyên (Câu 10, M= 3.88; SD= .76). Theo đó, phần lớn các học viên thừa nhận rằng họ chỉ đọc khi có bài thuyết trình hay bài tập được giao (Câu 9, M= 3.71; SD= .80). Mặt khác, không phủ nhận được thực tế rằng một số học viên cũng thường dành một giờ mỗi ngày để đọc tài liệu (Câu 6, M= 3.18; SD=.62) trong suốt quá trình học cao học TESOL tại trường. Tuy nhiên, thời gian dành cho việc đọc mỗi ngày như vậy là rất hạn chế. Nhấn mạnh thêm về sự hạn chế về thời lượng đọc này, Bảng 2 cho thấy rất ít học viên đọc hai giờ mỗi ngày (Câu 7, M= 2.82; SD= .67), càng không nhiều học viên đọc hơn hai giờ mỗi ngày (Câu 8, M= 2.76; SD= .81). Bảng 3. Địa điểm đọc Câu Nội dung câu h
File đính kèm:
- an_investigation_into_tesol_postgraduates_reading_habits_at.pdf