An investigation into tesol postgraduates’ reading habits at Ho Chi Minh city open university

Hiện nay, Trường Đại học Mở thành phố

Hồ Chí Minh (TP. HCM) đã và đang đào tạo

trình độ thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và phương

pháp dạy học bộ môn Tiếng Anh (TESOL) với

một số môn học chuyên ngành như: Lý thuyết

dạy và học ngôn ngữ, Phương pháp giảng dạy

nâng cao, Phương pháp kiểm tra đánh giá, hay

Ngôn ngữ và văn hóa trong dạy học, v.v. Để

hoàn thành chương trình học đầy tính hàn lâm

này, các học viên cao học (postgraduates) đòi hỏi

phải tham gia thuyết trình, và viết các bài luận

cho mỗi môn học (academic tasks), thể hiện kiến

thức và tư duy của người học. Theo đó, muốn đạt

kết quả học tập tốt (good learning outcomes), thì

mỗi học viên cao học cần phải xây dựng một thói

quen đọc tích cực và khoa học (good reading

habit). Nhấn mạnh về mối quan hệ này, Lanying1

cho rằng người học nên đọc nhiều tài liệu và đa

dạng về thể loại bài đọc thì mới đáp ứng được

yêu cầu của các môn học. Nếu hành động đọc

này được lặp đi lặp lại thường xuyên thì nó dần

dà hình thành nên một thói quen đọc tích cực

cho người học (Iftanti).2 Tác giả này cũng khẳng

định thói quen đọc khoa học và tích cực sẽ là

một công cụ quan trọng cho quá trình phát triển

năng lực tư duy và nhận thức của người học,

nhất là trong việc học ngôn ngữ. Thông qua thời

lượng dành cho việc đọc, thể loại và số lượng

tài liệu đọc cũng như cách thức đọc sẽ phần nào

phản ánh được thói quen đọc đó có mang tính

khoa học hay không. Mặt khác, một thói quen

đọc khoa học và tích cực được xây dựng trên

nền tảng các chiến lược đọc hợp lý (reading

strategies), vì chúng hỗ trợ đắc lực cho người

học hiểu rõ những gì mình đang đọc, thể hiện sắc

nét năng lực tư duy của người học (Grabe).

pdf11 trang | Chia sẻ: hoa30 | Lượt xem: 595 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu An investigation into tesol postgraduates’ reading habits at Ho Chi Minh city open university, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2019, 13(6), 43-53
An investigation into TESOL postgraduates’ reading habits 
at Ho Chi Minh City Open University
Truong Minh Hoa*
Ho Chi Minh City Open University
Received: 05/10/2019; Accepted: 06/11/2019
ABSTRACT
Exploring learners’ reading habits has recently been paid attention by numerous educators, helping 
orient learners to possess a good reading habit. The fact shows that learners’ reading habits and their academic 
performances have been interrelated. The present survey study was carried out on over 75 TESOL postgraduates at 
Ho Chi Minh City Open University. Based upon the preliminary results, the study investigated how these students 
possessed their reading habits as well as what factors directly hindered their reading habits. Finally, this paper 
recommended some solutions to help the learners improve their act of reading. 
Key words: Reading habits, postgraduates, TESOL.
*Corresponding author. 
Email: Ngutngonnguhoc91@gmail.com
44
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA HỌCTẠP CHÍ
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2019, 13(6), 43-53
Tìm hiểu thói quen đọc của học viên cao học chuyên 
ngành Phương pháp giảng dạy tiếng Anh 
tại trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh
Trương Minh Hòa*
Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 05/10/2019; Ngày nhận đăng: 06/11/2019
TÓM TẮT
Việc tìm hiểu thói quen đọc của người học đã nhận được nhiều sự quan tâm từ các nhà giáo dục, giúp định 
hướng người học có một thói quen đọc tích cực và khoa học hơn. Thực tế chỉ ra rằng giữa thói quen đọc và kết 
quả học tập có mối quan hệ mật thiết. Bài nghiên cứu này khảo sát trên 75 học viên cao học chuyên ngành Phương 
pháp giảng dạy tiếng Anh tại Trường Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh. Dựa theo kết quả nghiên cứu sơ bộ, bài 
viết đã tìm ra thói quen đọc thực tế của nhóm đối tượng này như thế nào và những yếu tố nào ảnh hưởng trực tiếp 
đến thói quen đọc đó. Cuối cùng, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp các học viên cao học này có những hoạt 
động đọc hiệu quả. 
Từ khóa: Thói quen đọc, học viên cao học, giảng dạy tiếng Anh.
*Tác giả liên hệ chính. 
Email: Ngutngonnguhoc91@gmail.com
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, Trường Đại học Mở thành phố 
Hồ Chí Minh (TP. HCM) đã và đang đào tạo 
trình độ thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và phương 
pháp dạy học bộ môn Tiếng Anh (TESOL) với 
một số môn học chuyên ngành như: Lý thuyết 
dạy và học ngôn ngữ, Phương pháp giảng dạy 
nâng cao, Phương pháp kiểm tra đánh giá, hay 
Ngôn ngữ và văn hóa trong dạy học, v.v... Để 
hoàn thành chương trình học đầy tính hàn lâm 
này, các học viên cao học (postgraduates) đòi hỏi 
phải tham gia thuyết trình, và viết các bài luận 
cho mỗi môn học (academic tasks), thể hiện kiến 
thức và tư duy của người học. Theo đó, muốn đạt 
kết quả học tập tốt (good learning outcomes), thì 
mỗi học viên cao học cần phải xây dựng một thói 
quen đọc tích cực và khoa học (good reading 
habit). Nhấn mạnh về mối quan hệ này, Lanying1 
cho rằng người học nên đọc nhiều tài liệu và đa 
dạng về thể loại bài đọc thì mới đáp ứng được 
yêu cầu của các môn học. Nếu hành động đọc 
này được lặp đi lặp lại thường xuyên thì nó dần 
dà hình thành nên một thói quen đọc tích cực 
cho người học (Iftanti).2 Tác giả này cũng khẳng 
định thói quen đọc khoa học và tích cực sẽ là 
một công cụ quan trọng cho quá trình phát triển 
năng lực tư duy và nhận thức của người học, 
nhất là trong việc học ngôn ngữ. Thông qua thời 
lượng dành cho việc đọc, thể loại và số lượng 
tài liệu đọc cũng như cách thức đọc sẽ phần nào 
phản ánh được thói quen đọc đó có mang tính 
khoa học hay không. Mặt khác, một thói quen 
đọc khoa học và tích cực được xây dựng trên 
nền tảng các chiến lược đọc hợp lý (reading 
strategies), vì chúng hỗ trợ đắc lực cho người 
học hiểu rõ những gì mình đang đọc, thể hiện sắc 
nét năng lực tư duy của người học (Grabe).3 Tác 
giả này cũng đề ra hai mươi chiến lược đọc quan 
45
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2019, 13(6), 43-53
trọng, chẳng hạn như: Liên tưởng, suy luận, tóm 
tắt, dự đoán, hay ghi chú, v.v... Nghiên cứu về 
thói quen và sở thích đọc của học viên cao học 
chuyên ngành ngôn ngữ Anh của Noor4 đã cho 
thấy phần lớn những học viên này thường đọc 
nhiều thể loại bài viết khác, có nhiều lý do cho 
việc đọc của mình, nhưng tựu trung lại họ thích 
đọc tài liệu online, với mục đích có thêm tư liệu 
phục vụ cho việc thi cử. Tác giả của nghiên cứu 
này đã kết luận lại bằng một lời khuyên thiết 
thực rằng học viên cao học nên đọc nhiều tài liệu 
cả về số lượng lẫn thể loại thì mới đảm bảo hiệu 
quả học tập (academic achievement).
Mặc dù đa phần người học có niềm tin sâu 
sắc vào tầm quan trọng của hoạt động đọc, tuy 
nhiên các nhóm đối tượng người học khác nhau, 
bao gồm người học ngành ngôn ngữ sẽ sở hữu 
các thói quen đọc khác nhau. Thực tế chỉ ra rằng 
trong khi một số người học có thói quen đọc tích 
cực, thì dường như số khác lại thể hiện thói quen 
đọc chưa khoa học. Kết quả nghiên cứu của Issa, 
Aliyu, Akangbe và Adedeji5 cho thấy những học 
sinh có thói quen đọc thiếu tính khoa học và hệ 
thống đã ít nhiều ảnh hưởng xấu đến kết quả các 
bài kiểm tra của họ ở trường. Nhóm tác giả này 
cũng thừa nhận rằng kết quả học tập thấp do thói 
quen đọc thiếu tích cực đã gây ra nhiều mối lo 
lắng cho các thầy cô và chuyên gia trong lĩnh 
vực giáo dục. Tương tự, nghiên cứu của hai tác 
giả Owusu-Acheaw and Larson6 kết luận rằng 
kết quả thấp từ các bài kiểm tra của học sinh xuất 
phát từ thực tế những học sinh này thiếu thói 
quen đọc hợp lý. Như vậy, giữa thói quen đọc 
và kết quả các bài luận cũng như quá trình tiếp 
nhận kiến thức môn học (knowledge acquisition) 
sẽ tỷ lệ thuận với nhau; nghĩa là, người học sở 
hữu thói quen đọc tích cực sẽ gặt hái một số kết 
quả cao nhất định trong các bài luận, đồng thời 
quá trình lĩnh hội kiến thức môn học cũng diễn 
ra nhanh và sâu hơn, và ngược lại. 
Tella và Akande (2007, được trích lại từ 
Akanda, Hoq và Hasan)7 đã nhấn mạnh rằng 
khả năng cũng như thói quen đọc là nguồn cảm 
hứng của quá trình tự học lâu dài, và nó thể hiện 
được năng lực tư duy, nhận thức của người học. 
Tuy nhiên hiện nay, do ảnh hưởng của nhiều loại 
hình phương tiện truyền thông cũng như các phát 
minh công nghệ hiện đại mà mọi người dường 
như không còn hứng thú với việc đọc sách, tạp 
chí hay tài liệu. Cũng từ kết quả nghiên cứu của 
Issa và nhóm cộng sự5 đã tiết lộ nhiều học sinh 
thích xem phim, nghe nhạc, xem các chương 
trình truyền hình thực tế trên tivi hơn việc đọc. 
Theo nhận định của nhóm tác giả này, chính 
thực tế trên đã làm thu hẹp khả năng trở thành 
người đọc thành công của người học. Có rất 
nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến thói quen đọc 
của người học. Trong bài viết của mình, hai tác 
giả, Sohail và Alvi8 đã liệt kê bảy nguyên nhân 
căn bản, bao gồm: 1. Đặc điểm của người đọc; 
2. Nhu cầu của người đọc; 3. Đặc điểm của nội 
dung cần đọc; 4. Năng lực tư duy của người đọc; 
5. Giá cả của tài liệu đọc; 6. Tính có sẵn của tài 
liệu đọc; và 7. Sự tương tác giữa người đọc và 
tài liệu đọc. Trong khi đó, Lanying1 lại phân loại 
thành hai nguồn nhân tố chủ yếu, đó là 1. Nhân 
tố tích cực (encouraging factors); 2. Nhân tố tiêu 
cực (discouraging factors). Nhân tố tích cực ở 
đây bao gồm sự động viên từ người dạy, sự hỗ 
trợ từ người khác, mục đích và thái độ đối với 
việc đọc, các thể loại bài đọc; ngược lại, nhóm 
nhân tố tiêu cực gồm năng lực của từng người 
học hay quỹ thời gian. Tìm ra các tác nhân ảnh 
hưởng đến quá trình đọc của người học là một 
công việc vô cùng quan trọng, định hướng cho 
người học một thói quen đọc tích cực hơn, khoa 
học hơn và hiệu quả hơn.
Như đã phân tích ở trên, để đạt được kết 
quả học tập tốt, các học viên cao học chuyên 
ngành TESOL cần phải nuôi dưỡng một thói 
quen đọc tích cực và khoa học. Chính vì vậy, 
bài nghiên cứu này được thực hiện để tìm hiểu 
trên thực tế nhóm người học này có thói quen 
và xu hướng đọc như thế nào. Cụ thể, thói quen 
đọc của nhóm người học này sẽ được miêu tả 
qua các khía cạnh như sau: 1. Mục đích/ Động 
lực đọc; 2. Thời gian đọc; 3. Số lượng tài liệu 
đọc; 4. Loại tài liệu đọc; 5. Địa điểm đọc; và 
6. Chiến lược đọc. Tiếp theo đó, tác giả bài viết 
46
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA HỌCTẠP CHÍ
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2019, 13(6), 43-53
cũng cố gắng xem xét một số nguyên nhân cơ 
bản đã ảnh hưởng đến thói quen đọc tài liệu của 
các học viên cao học chuyên ngành TESOL. Từ 
những kết quả sơ bộ, tác giả bài viết này sẽ đưa 
ra một số đề xuất cho việc cải thiện hoạt động 
đọc của nhóm học viên này. Mục tiêu nghiên cứu 
của bài viết này sẽ đạt được thông qua các câu 
hỏi nghiên cứu dưới đây:
Câu hỏi nghiên cứu 1: Thói quen đọc của 
học viên cao học chuyên ngành TESOL tại đại 
học Mở TP. HCM như thế nào?
Câu hỏi nghiên cứu 2: Những nhân tố nào 
ảnh hưởng đến thói quen đọc của nhóm học viên 
này?
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Đọc hiểu (Reading comprehension)
Đọc hiểu là một trong những yếu tố quan 
trọng nhất quyết định người đọc hoặc người học 
ngôn ngữ có thành công hay không. Tuy nhiên, 
đọc hiểu là một nhiệm vụ khó khăn nhất đối với 
người học tiếng Anh. Về mặt lý thuyết, đọc hiểu 
là một quá trình tương tác nhằm giải mã nội dung 
(decoding) của một văn bản (Meniado)9, đòi hỏi 
nhiều kỹ năng và khía cạnh như nhận thức về 
mặt từ ngữ, nắm bắt ý nghĩa rõ ràng, tư duy suy 
luận (Hermosa)10. Thêm vào đó, đọc hiểu là một 
năng lực nhận thức phức tạp đòi hỏi khả năng 
liên hệ thông tin văn bản với kiến thức nền tảng 
của người đọc (Meneghetti, Carretti, & Beni)11. 
Tóm lại, đọc hiểu đề cập đến khả năng hiểu văn 
bản dựa trên kiến thức về ngữ pháp cơ bản, khả 
năng xác định các ý chính trong văn bản, nhận 
thức về cấu trúc diễn ngôn và sử dụng chiến lược 
đọc hiểu hợp lý.2
2.2. Các chiến lược đọc (Reading strategies)
Theo Block,12 các chiến lược đọc có thể 
giúp người đọc hiểu được những gì họ đang đọc 
và cách họ sẽ dựa theo để khắc phục các vấn đề 
trong quá trình đọc (reading problems) và cuối 
cùng đạt được thành công của việc đọc hiểu. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy người đọc hiệu quả 
thì thường tích cực tương tác với văn bản và nắm 
vững các chiến lược họ sẽ sử dụng để hiểu bài 
đọc. Ghi chú, tóm tắt nội dung, viết lại nội dung 
theo ngôn ngữ của mình, tự đặt câu hỏi cho mình, 
dựa vào cấu trúc để hiểu nội dung, suy luận và 
liên tưởng, đọc nhiều lần, cũng như dịch có thể 
là những chiến lược hiệu quả giúp cải thiện năng 
lực đọc hiểu của người học ngôn ngữ.13
Ghi chú và tóm tắt nội dung đòi hỏi người 
đọc phải xác định được các ý chính và các ý 
phụ.14 Đây là hai chiến lược giúp người đọc sắp 
xếp các ý tưởng, đặc biệt là những bài đọc dài và 
phức tạp.15 
Viết lại nội dung theo ngôn ngữ của mình 
là một cách khác để tóm tắt, tuy nhiên người đọc 
xử lý thông tin văn bản ở mức sâu hơn.16 Chiến 
lược này sẽ giúp người đọc nắm được nội dung 
bài đọc một cách tổng thể, thể hiện được tư duy 
và sự tích cực của người đọc.17 
Tự đặt câu hỏi cho mình là một chiến lược 
mà người đọc có thể sử dụng trước, trong và sau 
khi đọc. Quá trình đặt câu hỏi đòi hỏi người đọc 
tự đặt câu hỏi để xây dựng ý nghĩa, tăng cường 
hiểu biết, tìm kiếm câu trả lời, giải quyết vấn đề, 
tìm thông tin và khám phá thông tin mới.11
Dựa vào cấu trúc bài đọc để hiểu nội dung 
là một chiến lược hữu ích dành cho người đọc 
trước khi đọc, nó giúp họ nắm được tổng thể nội 
dung bài đọc về cái gì và kết cấu thế nào,18 đặc 
biệt trong trường hợp bài đọc chứa nhiều từ ngữ 
khó hoặc bài đọc quá dài.13 
Suy luận và liên tưởng là một chiến lược 
khác có thể được sử dụng trong quá trình đọc. 
Với chiến lược này, người học có thể liên kết 
kiến thức nền của mình và các ý tưởng trong văn 
bản. Lúc này, viêc đọc trở nên có ý nghĩa hơn khi 
người đọc kết nối các ý tưởng trong văn bản với 
kinh nghiệm và niềm tin của họ, và những điều 
xảy ra ở thế giới bên ngoài.19 
Ngoài ra, đọc nhiều lần hoặc dịch cũng 
là những chiến lược khả dụng trong trường hợp 
người đọc gặp nhiều khó khăn (comprehension 
breakdowns) trong việc giải mã thông tin bài 
đọc, nhất là về mặt ngôn ngữ. Những chiến lược 
này cũng thể hiện sự tích cực của người đọc khi 
47
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2019, 13(6), 43-53
họ cố gắng nâng cao khả năng đọc hiểu của mình 
(Bui;15 Tran,17). 
2.3. Một số vấn đề trong việc đọc (Reading 
problems)
Đầu tiên, theo Anderson,20 người đọc 
luôn mong đợi nắm vững kiến thức ngôn ngữ 
(language knowledge) trước khi đọc bằng ngôn 
ngữ thứ hai hoặc ngoại ngữ. Tác giả này cho biết 
thêm rằng sự hạn chế về từ vựng và cấu trúc ngôn 
ngữ có thể làm giảm khả năng đọc hiểu. Lili21 chỉ 
rõ rằng những người đọc giỏi thường nhận ra và 
giải mã các từ ngữ, cấu trúc ngữ pháp và các mẫu 
câu một cách nhanh chóng và chính xác. 
Bên cạnh đó, kiến thức nền (background 
knowledge) có thể bù đắp cho những người đọc 
thiếu kiến thức ngôn ngữ. Nói chung, sự quen 
thuộc với các chủ đề có ảnh hưởng rất lớn đến khả 
năng đọc hiểu của người đọc. Do đó, Alderson20 
khuyên rằng người đọc nên dành nhiều thời gian 
để tìm hiểu và mở rộng hiểu biết của họ ở nhiều 
đề tài, lĩnh vực khác nhau. 
Ngoài ra, một trong những yếu tố quan 
trọng nhất có thể dẫn đến khả năng đọc hiểu tốt là 
động lực (motivation).22 Những phát hiện trong 
nghiên cứu của họ cho thấy rằng những sinh viên 
có động lực và hứng thú cao hơn với việc đọc sẽ 
cải thiện khả năng đọc hiểu hơn là những sinh 
viên khác có động lực thấp hơn. Do đó, việc đọc 
hiểu có thể được cải thiện đáng kể cho đến khi 
người đọc cảm thấy có động lực thực sự.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Ngữ cảnh và mẫu nghiên cứu
3.1.1. Ngữ cảnh nghiên cứu
Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh là 
một trong ba trường tại khu vực miền Nam đào 
tạo bậc cao học chuyên ngành Phương pháp 
giảng dạy tiếng Anh (TESOL). Mỗi năm, trường 
tuyển sinh đầu vào khoảng 40 - 50 học viên, đa 
phần là các giáo viên, giảng viên tại các trường 
trung học, cao đẳng, đại học. Tính đến thời điểm 
hiện tại, trường đã và đang đào tạo được 11 khóa 
với gần 500 học viên. Để hoàn thành chương 
trình học này, học viên bắt buộc phải tham gia 
thuyết trình đầy đủ, hoàn thành các bài tập nhỏ 
và viết bài luận cuối mỗi môn học (tổng cộng 13 
môn học).
3.1.2. Mẫu nghiên cứu
Dựa theo mục tiêu nghiên cứu ban đầu, 
tác giả bài viết đã tiến hành một cuộc nghiên cứu 
thăm dò (exploratory research) trên 2 lớp cao học 
TESOL gần đây, là khóa 11 (2016 - 2018), khóa 
12 (2017 - 2019) với tổng số 89 học viên, trong 
đó bao gồm 17 học viên nam (chiếm 19,10%) và 
72 học viên nữ (chiếm 80,90%). Mẫu nghiên cứu 
này được lựa chọn dựa theo phương pháp lấy mẫu 
có mục đích (purposive sampling method). Tuy 
nhiên, trên thực tế chỉ có 75 học viên hoàn thành 
bảng câu hỏi khảo sát, tức là khoảng 84,27% so 
với tổng số học viên trong mẫu chọn nghiên cứu. 
Như vậy, mẫu nghiên cứu chính thức của bài viết 
này là 75 học viên.
3.2. Công cụ và tiến trình thu thập dữ liệu
3.2.1. Công cụ nghiên cứu
Như đã giới thiệu ở trên, đây là một bài 
nghiên cứu khảo sát, do đó tác giả bài viết đã 
sử dụng phương pháp định lượng (quantitative 
method) là chính để thu thập dữ liệu. Với phương 
pháp định lượng, tác giả bài nghiên cứu này sử 
dụng bảng câu hỏi khảo sát (questionnaire) được 
phát triển từ kết quả nghiên cứu của các nhóm 
tác giả như Noor (2011), Akanda, Hoq và Hasan 
(2013), Owusu-Acheaw và Larson (2014). Bảng 
câu hỏi khảo sát này gồm 34 câu, sử dụng thang 
đo Likert 5 mức độ, từ 1 (hoàn toàn không đồng 
ý) đến 5 (hoàn toàn đồng ý). Độ tin cậy của bảng 
câu hỏi khảo sát này tương đối cao với hệ số 
Cronbach’s Alpha = .709. 
3.2.2. Tiến trình thu thập và xử lý dữ liệu
Đầu tiên, tác giả của bài nghiên cứu này 
liên hệ với các học viên hai lớp cao học TESOL 
khóa 9 và 10 qua thư điện tử. Trong thư này, tác 
giả trình bày một số thông tin chính như: tên chủ 
đề, mục đích, nội dung cốt lõi của bảng câu hỏi 
48
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA HỌCTẠP CHÍ
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Quy Nhơn, 2019, 13(6), 43-53
khảo sát, cũng như lời cảm ơn; đồng thời, tác 
giả bài viết gửi đính kèm bảng câu hỏi khảo sát 
cho các học viên (online questionnaire). Bước 
gửi phiếu khảo sát này được tiến hành trong hai 
ngày. Ba tuần sau đó, tác giả bài viết đã tiến hành 
tổng hợp lại tất cả các phiếu phản hồi online của 
học viên với tổng số 75 phiếu, nhập dữ liệu vào 
phần mềm tính SPSS phiên bản 20.0, để truy 
xuất ra số trung bình (Mean scores), độ lệch 
chuẩn (Standard Deviation) của từng câu hỏi. 
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phần này trình bày kết quả cũng như bình 
luận của hai câu hỏi nghiên cứu, gồm 7 bảng 
biểu như bên dưới. Mức độ đồng ý của mỗi 
câu hỏi được chia thành 3 khoảng: 1.00 - 2.60 
(không đồng ý), 2.61 - 3.40 (đồng ý ở mức độ 
trung bình), 3.41 - 5.00 (đồng ý mức độ cao). 
4.1. Câu hỏi nghiên cứu 1: Thói quen đọc của 
học viên cao học chuyên ngành TESOL tại đại 
học Mở TP. HCM như thế nào?
Bảng 1. Mục đích của việc học
Câu Nội dung câu hỏi
Số học viên 
(N)
Số trung 
bình (M)
Độ lệch 
chuẩn (SD)
Xếp hạng 
(Ranking)
Trong suốt quá trình học chương trình cao học TESOL tại trường, 
01 Tôi đọc để tìm thông tin, ý tưởng cho bài thuyết trình 75 4.62 .75 1
02
Tôi đọc để tìm thông tin, ý tưởng cho bài luận cuối 
mỗi môn học 
75 4.47 .83 2
03 Tôi đọc để chuẩn bị bài trước khi nghe giảng 75 3.96 .86 3
04 Tôi đọc như là cách để thư giãn 75 2.71 .92 5
05 Tôi đọc để cải thiện năng lực ngôn ngữ của mình 75 3.34 .78 4
Kết quả từ Bảng 1 cho thấy đa phần các 
học viên cao học tìm đọc tài liệu với mục đích 
chính yếu là hoàn thành các yêu cầu của môn 
học, chẳng hạn như: thuyết trình (Câu 1, M= 
4.62; SD= .75), hoặc các bài luận cuối mỗi môn 
học (Câu 2, M= 4.47; SD= .83). Bên cạnh đó, 
nhiều học viên cũng thừa nhận rằng việc đọc 
là cần thiết, giúp họ hiểu bài hơn trước khi đến 
lớp nghe giảng (Câu 3, M= 3.96; SD= .86). 
Câu 4 chỉ ra rằng việc đọc như cách để giải trí 
không được nhiều học viên lựa chọn (M= 2.71; 
SD= .92). Như một tín hiệu đáng mừng, cũng 
khá nhiều người phản hồi đánh giá cao vai trò 
của hoạt động đọc trong việc tăng cường năng 
lực ngôn ngữ (language proficiency), như các 
kỹ năng đọc hiểu, viết, từ vựng, ngữ pháp, v.v... 
(M= 3.34; SD= .78). 
Bảng 2. Mức độ thường xuyên của việc đọc
Câu Nội dung câu hỏi
Số học 
viên (N)
Số trung 
bình (M)
Độ lệch 
chuẩn (SD)
Xếp hạng 
(Ranking)
Trong suốt quá trình học chương trình cao học TESOL tại trường, 
06 Tôi thường đọc một giờ mỗi ngày 75 3.18 .62 3
07 Tôi thường đọc hai giờ mỗi ngày 75 2.82 .67 4
08 Tôi thường đọc nhiều hơn hai giờ mỗi ngày 75 2.76 .81 5
09 Tôi đọc chỉ khi có bài thuyết trình hay bài kiểm tra 75 3.71 .80 2
10 Tôi thỉnh thoảng mới đọc 75 3.88 .76 1
49
QUY NHON UNIVERSITY
SCIENCEJOURNAL OF
Journal of Science - Quy Nhon University, 2019, 13(6), 43-53
Như kết quả được trình bày trong Bảng 
2, phần đông học viên chỉ thỉnh thoảng mới 
đọc, nghĩa rằng họ đọc không thường xuyên 
(Câu 10, M= 3.88; SD= .76). Theo đó, phần lớn 
các học viên thừa nhận rằng họ chỉ đọc khi có 
bài thuyết trình hay bài tập được giao (Câu 9, 
M= 3.71; SD= .80). Mặt khác, không phủ nhận 
được thực tế rằng một số học viên cũng thường 
dành một giờ mỗi ngày để đọc tài liệu (Câu 6, 
M= 3.18; SD=.62) trong suốt quá trình học cao 
học TESOL tại trường. Tuy nhiên, thời gian dành 
cho việc đọc mỗi ngày như vậy là rất hạn chế. 
Nhấn mạnh thêm về sự hạn chế về thời lượng 
đọc này, Bảng 2 cho thấy rất ít học viên đọc hai 
giờ mỗi ngày (Câu 7, M= 2.82; SD= .67), càng 
không nhiều học viên đọc hơn hai giờ mỗi ngày 
(Câu 8, M= 2.76; SD= .81). 
Bảng 3. Địa điểm đọc
Câu Nội dung câu h

File đính kèm:

  • pdfan_investigation_into_tesol_postgraduates_reading_habits_at.pdf
Tài liệu liên quan