Hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp Tiếng Hán và Tiếng Việt

Trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung, tỉnh lược trong điều kiện cho phép được coi là phương tiện

để tiết kiệm ngôn từ, giúp cho thông tin từ phía người nói hoặc người viết được chuyển tải đến

người nghe hoặc người đọc một cách đầy đủ nhất với số lượng ngôn từ ít nhất mà vẫn đảm bảo

hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ. Tuy nhiên, tỉnh lược phải đảm bảo thông tin tường minh, tránh mơ

hồ, thậm chí khó hiểu hoặc hiểu sai nội dung thông tin, nhất là phải đảm bảo tính lịch sự trong

giao tiếp nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp. Tỉnh lược trong mỗi ngôn ngữ có khác nhau. Có những

trường hợp cùng một câu văn, trong ngôn ngữ này có thể tỉnh lược một hoặc một số thành phần,

nhưng trong ngôn ngữ kia lại không tỉnh lược được. Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành phân

tích điều kiện và vai trò của tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt, chỉ ra những tương

đồng và khác biệt giữa chúng, nhằm góp một tài liệu tham khảo cho công tác dạy học và nghiên

cứu tiếng Hán ở Việt Nam.

pdf8 trang | Chia sẻ: phuthai499 | Lượt xem: 884 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp Tiếng Hán và Tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 khiến cho lời thoại hết 
sức ngắn gọn, nội dung thông tin nổi rõ, thể hiện sinh 
động sự quan tâm chu đáo của Thị dành cho Chí.
(8) – Vừa thổ hả? 
– Ði vào nhà nhé? 
– Thì đứng lên. 
Đoạn thoại trong tác phẩm văn học mà tưởng như 
lời thoại giữa đời thường, khiến người đọc cảm nhận 
được sự thân mật giữa Thị Nở và Chí Phèo – một kẻ 
bất cần đời mà cả làng Vũ Đại phải sợ hãi.
Tỉnh lược còn thường gặp trong phát ngôn chào 
của tiếng Hán và tiếng Việt. Tùy từng ngữ cảnh cụ 
thể, người nói có thể lựa chọn dạng thức đầy đủ hay 
tỉnh lược đối với thành phần tự xưng và đối xưng. Ba 
dạng thức lời chào sau đây đều thường gặp trong 
tiếng Việt. 
– Xin chào!
– Chào + Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai !
– Đại từ nhân xưng ngôi I + chào + Đại từ nhân xưng 
ngôi II.
Trong ba dạng lời chào trên, dạng thứ nhất thường 
sử dụng cho những người có vị thế ngang hàng hoặc 
người người có vị thế cao đối với người có vị thế thấp. 
Dạng thứ hai và ba dùng cho mọi đối tượng. Hai dạng 
này đã thể hiện được vai giao tiếp giữa người nói và 
người nghe, là những lời chào trang trọng, sắc thái 
tôn kính của người vị thế thấp dành cho người có vị 
thế cao và sắc thái tình cảm thân mật của người có 
vị thế cao dành cho người có vị thế thấp cũng được 
bộc lộ rõ nét, tùy theo cách lựa chọn đại từ nhân 
xưng của người nói. Trong đó, dạng thứ hai tương 
đương với tiếng Hán, dạng thứ ba chỉ có trong tiếng 
Việt mà không có sự tương ứng tuyệt đối trong tiếng 
Hán, nghĩa là trong phát ngôn chào, trong tiếng Hán 
không xuất hiện từ ngữ biểu thị tự xưng 
Trong lời đáp của câu thoại tiếng Việt, có khi chỉ là 
một từ đơn, nhằm trả lời cho tâm điểm của câu hỏi 
cần hướng tới, kể cả khi từ đó là một hư từ. Ví dụ:
(9)– Anh đã gọi điện thoại báo tin vui cho mẹ chưa?
– Đã.
Cách biểu đạt tương đương với đoạn thoại trên trong 
tiếng Hán là:
你已经打电话告诉妈妈这个好消息了吗? 
 打了。
Với đối thoại của hai người ngang hàng nhau hoặc 
người có vị thế cao với người vị thế thấp hơn, câu trả 
lời chỉ bằng một từ “đã”, hoặc “rồi” cũng có thể khiến 
cho giao tiếp ngôn ngữ được diễn ra thuận lợi. Trong 
tiếng Hán, các hư từ tương ứng với “đã” (已经) và “rồi” 
(了) không thể độc lập tạo thành lời đáp được mà phải 
căn cứ vào ngữ cảnh để bổ sung động từ chính trong 
câu hỏi tương ứng vào lời đáp, như câu trên cần thêm 
động từ “gọi” (điện thoại) 打đả kết hợp với 了liễu để 
tạo thành lời đáp đã rút gọn 打了đả liễu (đã gọi rồi) 
và lời đáp đầy đủ 我已经打电话通知她了(Anh đã gọi 
điện thoại báo mẹ rồi). Như vậy, trong lời đáp của cả 
tiếng Hán và tiếng Việt đều có thể tỉnh lược đến mức 
tối đa. 
Trong cuốn “Tám trăm từ tiếng Hán hiện đại” (现代
汉语八百词), Lã Thúc Tương (吕叔湘,1982) đã khẳng 
định: “Trong tiếng Hán, khi không cần dùng đại từ nhân 
xưng thì có thể không dùng, cho dù vì thế mà kết cấu 
câu có thể không hoàn chỉnh, nhưng ta không theo chủ 
nghĩa hình thức.” (在汉语里,当不需要用人称代词
的时候就不用,即使为此而句子结构可能不完整,
我们也不追求形式主义。) 
Dưới đây là cuộc thoại giữa nhân vật “nữ đồng chí” và 
anh liên lạc tuổi đời 19 lại chưa từng trải qua tình yêu 
trong tác phẩm “Hoa bách hợp” của Như Chí Quyên:
(10) 你多大了?
[我] 十九。
[你] 参加革命几年了?
[我(参加)] 一年(了)。
9KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
[你] 家里还有什么人?
[我家里有] 娘、爹、弟弟、妹妹,还有一个姑
姑
 – Anh bao nhiêu tuổi rồi?
– (Tôi) mười chín.
– (Anh) tham gia cách mạng mấy năm rồi?
– (Tôi tham gia) một năm (rồi).......
– Gia đình (anh) còn có những ai?
– (Trong nhà tôi có) bố, mẹ, em trai, em gái, còn có một 
bà cô 
“Nữ đồng chí” là người chiến sỹ nhiều tuổi đời và tuổi 
quân hơn so với anh chiến sỹ thông tin trẻ tuổi sinh 
ra và lớn lên từ nông thôn, chưa từng trải cuộc sống 
và tình yêu, rất lúng túng khi tiếp xúc với bạn khác 
giới. Tình đồng đội đã thôi thúc “nữ đồng chí” chủ 
động làm quen với chàng trai trẻ. Đoạn đối thoại giữa 
hai người đã tỉnh lược đến mức gần như tối đa đại 
từ nhân xưng, người hỏi dường như đang chất vấn, 
người trả lời thì thực sự miễn cưỡng. Về góc độ thể 
hiện tư tưởng nội dung của tác phẩm, sự khuyết vắng 
của đại từ nhân xưng đã góp phần làm nổi rõ tính 
cách của từng nhân vật, nhất là anh chiến sỹ trẻ tỏ 
ra rất nhút nhát, rụt rè trong cuộc sống đời thường, 
nhưng tính cách ấy lại hoàn toàn trái ngược với hành 
vi dũng cảm hy sinh cứu đồng đội, khiến cho nhân 
vật để lại dấu ấn khó quên trong lòng người đọc. 
Đó cũng là một trong những nhân tố làm nên thành 
công của tác giả trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. 
Về phía người tham gia giao tiếp, việc lựa chọn hay 
lược bỏ đại từ nhân xưng có thể coi là một chiến lược 
giao tiếp, nhất là khi người nói còn mơ hồ trong việc 
xác định quan hệ vai giao tiếp hoặc cố ý dành khoảng 
trống trong xưng hô để người nghe tự cảm nhận.
Ví dụ trên còn cho thấy, có khi tỉnh lược đại từ nhân 
xưng kéo theo một số từ ngữ khác cũng bị tỉnh 
lược. Ví dụ (1) [我(参加)] 一年(了)và (2) [我家
里有] 娘、爹、弟弟、妹妹. Trường hợp (1) 我 bị 
tỉnh lược kéo theo 参加 và了cũng tỉnh lược theo. 
Trường hợp (2) 我 bị tỉnh lược kéo theo 家里有 
cũng tỉnh lược theo. 
Một điểm khác biệt khá nổi bật nữa trong giao tiếp 
tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt là, tiếng Việt đến nay 
vẫn còn sử dụng những từ ngữ mở đầu câu thoại như 
“thưa”, “kính thưa” thể hiện tính chất lịch sự, trang 
trọng. Trong hầu hết các cuộc giao tiếp chính thức, 
những kính từ này đều không thể lược bỏ. Lịch sử 
giao tiếp tiếng Hán đã từng xuất hiện các cách biểu 
đạt tương tự, như 禀告 bẩm cáo, 启禀 khởi bẩm. 
Ngày nay, người Trung Quốc đã lược bỏ những kính 
từ này. Trong giao tiếp trực tiếp hay giao tiếp gián 
tiếp qua thư từ chỉ sử dụng từ ngữ xưng hô để mở 
đầu cuộc thoại. Trong thư, dòng đầu tiên truyền đạt 
thông tin gửi cho ai, người ta rất chú ý lựa chọn từ 
ngữ xưng hô phù hợp với đối tượng nhận thư và viết 
từ đầu dòng, thể hiện sự trân trọng. Vì vậy, cần căn 
cứ vào ngữ cảnh cụ thể để chuyển dịch sang tiếng 
Việt mới có thể đạt được sự biểu đạt tương ứng. Ví 
dụ, lời mở đầu thư mời của vị lãnh đạo một trường 
đại học Trung Quốc gửi lãnh đạo một trường Đại học 
Việt Nam có viết: 河内大学校长先生. Hay như trong 
thư của người con gửi cho bố, mở đầu bằng hai chữ 
爸爸!Cách biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt 
lần lượt phải là “Kính gửi Ông hiệu trưởng Trường Đại 
học Hà Nội” và “Bố kính mến!” hoặc “Thưa bố!”. Trong 
xưng hô giữa hai mẹ con, khi người con cất tiếng nói: 
“妈,我回来了!”, ta cần căn cứ vào ngữ cảnh mới 
có thể đưa ra cách biểu đạt hoàn toàn tương ứng 
trong tiếng Việt. Chẳng hạn, nếu người con là nàng 
dâu mới về nhà chồng thì cách biểu đạt tương ứng 
trong tiếng Việt là “Thưa mẹ! Con đã về ạ.” Còn như 
khi tình cảm giữa nàng dâu và mẹ chồng đã trở nên 
thân thiết thì cách biểu đạt tương ứng là “Mẹ ơi con 
đã về.” Hơn ai hết, người Việt Nam học tiếng Hán cần 
nắm được những điểm khác biệt này giữa hai ngôn 
ngữ mới có thể chuyển dịch hoặc lựa chọn cách biểu 
đạt phù hợp với thói quen của người bản ngữ và đạt 
được hiệu quả cao trong giao tiếp.
4. KẾT LUẬN 
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy, tỉnh lược 
là hiện tượng ngôn ngữ được sử dụng trong cả khẩu 
ngữ và bút ngữ. Trong các cuộc thoại trực tiếp, do 
sự hiện diện của đôi bên tham gia giao tiếp, người 
nói và người nghe sẽ có thể căn cứ vào các nhân tố 
chủ quan và khách quan của ngữ cảnh giao tiếp cụ 
thể để xác định thành phần được tỉnh lược mà chủ 
yếu là từ xưng hô bao gồm cả tự xưng là chủ thể của 
phát ngôn và đối xưng là khách thể nhận ngôn. Do 
10 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
đó, tỉnh lược trong các cuộc thoại, nhất là tỉnh lược từ 
ngữ dùng để xưng hô là khá phổ biến. Tỉnh lược trong 
văn bản viết có thể áp dụng với mọi thành phần câu. 
Tỉnh lược giúp cho nội dung trọng điểm của thông tin 
càng nổi rõ, khiến cho lời ít ý nhiều, đảm bảo tính kinh 
tế trong giao tiếp ngôn ngữ. Ngoài ra, việc lựa chọn 
dạng tỉnh lược, nhất là tỉnh lược thành phần chủ ngữ 
và tân ngữ, thành phần tự xưng và đối xưng còn có 
giá trị như một chiến lược giao tiếp mà chính khoảng 
trống đã tỉnh lược ấy tạo ra không gian mở cho người 
nghe lí giải về thái độ của người nói. Tỉnh lược trong 
tiếng Hán, nhất là tiếng Hán cổ đại thường gặp hơn 
so với tiếng Việt, thành phần được tỉnh lược giữa hai 
phát ngôn tương ứng trong hai ngôn ngữ không 
hoàn toàn đồng nhất. Điều đó đòi hỏi người học và sử 
dụng ngôn ngữ phải nắm được ý nghĩa, vai trò, điều 
kiện tỉnh lược cũng như những tương đồng và khác 
biệt của hiện tượng tỉnh lược giữa hai ngôn ngữ mới 
có thể đảm bảo tính chính xác trong việc vận dụng và 
lý giải hiện tượng ngôn ngữ này, nhằm đạt hiệu quả 
cao trong giao tiếp và đối dịch Hán-Việt./. 
Tài liệu tham khảo:
1. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu 
tạo của văn bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Hiệp (2010), “Câu đặc biệt trong tiếng 
Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu (prototype)”, Tạp chí 
Ngôn ngữ, số 6.
3. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB 
Khoa học Xã hội.
4. 冯广艺(1999), 语境适应论,湖北教育出版社。
5. 黎锦熙(1992), 新著国语文法, 商务印书馆。
6. 李葆嘉、唐志超(2001), 现代汉语规范词典,
吉林大学出版社。
7. 吕叔湘(1980), 现代汉语八百词,商务印书馆。
8. 吕叔湘(1982), 中国文法要略,商务印书馆。
ELLIPSIS IN VERBAL COMMUNICATION IN CHINESE AND VIETNAMESE
PHAM NGOC HAM
Abstract: In verbal communication, ellipsis in many cases is used to save words, which helps 
speaker or writer share information with listener or reader within a few words, and improves the 
“economical” in language. However, using ellipsis must ensure that the information is clear, obvious 
and direct, especially the politeness in situation to achieve the efficiency in communication. 
Different languages have their own ways to use ellipsis. In some circumstances, ellipsis can be used 
in this language but not in other one. In this article, we analyze the roles and conditions of ellipsis 
in Chinese and Vietnamese to point out similiarities and differences between them, and it can be 
used as reference to teaching and researching Chinese in Vietnam.
Keywords: condition, ellipsis, Chinese, Vietnamese, role.

File đính kèm:

  • pdf41_4573_2137226.pdf
Tài liệu liên quan